USS Southerland (DD-743)

USS Southerland (DD-743)
Tàu khu trục USS Southerland (DD-743) ngoài khơi Xưởng hải quân Boston, 6 tháng 1 năm 1945
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Southerland (DD-743)
Đặt tên theo William Henry Hudson Southerland
Xưởng đóng tàu Bath Iron Works, Bath, Maine
Đặt lườn 27 tháng 5 năm 1944
Hạ thủy 5 tháng 10 năm 1944
Người đỡ đầu bà Edmund Richardson
Nhập biên chế 22 tháng 12 năm 1944
Xuất biên chế 26 tháng 2 năm 1981
Xếp lớp lại
Xóa đăng bạ 23 tháng 2 năm 1981
Danh hiệu và phong tặng 19 x Ngôi sao Chiến trận
Số phận Đánh chìm như mộr mục tiêu, 2 tháng 8 năm 1997
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Gearing
Trọng tải choán nước
  • 2.616 tấn Anh (2.658 t) (tiêu chuẩn);
  • 3.460 tấn Anh (3.520 t) (đầy tải)
Chiều dài 390,5 ft (119,0 m)
Sườn ngang 40,9 ft (12,5 m)
Mớn nước 14,3 ft (4,4 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số General Electric;
  • 4 × nồi hơi;
  • 2 × trục;
  • công suất 60.000 shp (45.000 kW)
Tốc độ 36,8 hải lý trên giờ (68,2 km/h; 42,3 mph)
Tầm xa 4.500 nmi (8.300 km) ở tốc độ 20 kn (37 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 350
Vũ khí

USS Southerland (DD-743) là một tàu khu trục lớp Gearing được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ được đặt theo tên Chuẩn đô đốc William Henry Hudson Southerland (1852-1933), người tham gia cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ.[1] Hoàn tất khi chiến tranh đã sắp kết thúc, con tàu tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh, Chiến tranh Triều TiênChiến tranh Việt Nam cho đến khi xuất biên chế và rút đăng bạ năm 1981, rồi bị đánh chìm như một mục tiêu năm 1997. Southerland được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, thêm tám Ngôi sao Chiến trận khác trong Chiến tranh Triều Tiên, và thêm mười Ngôi sao Chiến trận nữa trong Chiến tranh Việt Nam.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Southerland được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bath Iron WorksBath, Maine vào ngày 27 tháng 5 năm 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 5 tháng 10 năm 1944; được đỡ đầu bởi bà Edmund Richardson, con gái Đô đốc Southerland, và nhập biên chế vào ngày 22 tháng 12 năm 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Russell C. Williams.[1]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Thế Chiến II[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàn tất việc chạy thử máy tại khu vực Bermuda vào tháng 2 năm 1945, Southerland tiếp tục thực hành huấn luyện cho đến tháng 4. Nó gia nhập Đơn vị Đặc nhiệm 23.16.1 ngoài khơi bờ biển New Jersey vào ngày 24 tháng 4, rồi lên đường để hướng sang khu vực Thái Bình Dương. Đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 15 tháng 5, nó khởi hành đi Ulithi vào ngày 28 tháng 5, rồi chuyển đến Leyte, Philippines vào tháng 6. Chiếc tàu khu trục lên đường cùng Lực lượng Đặc nhiệm 38 vào ngày 1 tháng 7 cho những cuộc không kích cuối cùng xuống chính quốc Nhật Bản. Từ ngày 10 tháng 7 cho đến khi chiến tranh kết thúc, nó đã hộ tống cho các tàu sân bay trong khi máy bay của chúng không kích các mục tiêu quân sự và công nghiệp tại khu vực phụ cận Tokyo, tại các vùng khác trên đảo HonshūHokkaidō, cũng như trong vùng biển nội địa Seto. Chiếc tàu khu trục đã hai lần được cho tách ra cùng Đơn vị Đặc nhiệm 34.8.1 để hoạt động bắn phá ban đêm xuống khu vực Hamamatsu về phía Nam Honshū trong đêm 29-30 tháng 7, và sau đó xuống Kamaishi ở phía Bắc Honshū trong đêm 9-10 tháng 8.[1]

Kế hoạch không kích xuống khu vực đồng bằng Tokyo vào ngày 15 tháng 8 bị hủy bỏ sau khi Nhật Bản tuyên bố chấp nhận đầu hàng; tuy nhiên các con tàu vẫn tuần tra ngoài khơi bờ biển Nhật Bản. Đến ngày 27 tháng 8, Southerland thả neo tại Sagami Wan; và đến ngày 28 tháng 8, nó tiến vào vịnh Tokyo, rồi hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của lực lượng chiếm đóng lên Huttu SakiYokosuka vào ngày 30 tháng 8. Một tuần sau đó, con tàu hoàn tất một chuyến vận chuyển thư tín đến quần đảo Ryūkyū, rồi tham gia cùng Đội đặc nhiệm 35.1 để làm nhiệm vụ chiếm đóng.[1]

1946 - 1949[sửa | sửa mã nguồn]

Southerland lên đường quay trở về Hoa Kỳ vào tháng 1, 1946. Sau một thời gian bỏ không tại cảng San Diego, California, nó đi đến khu vực Trung Mỹ vào tháng 11, rồi sang tháng 2, 1947 lại được phái sang khu vực Tây Thái Bình Dương.Đi đến Thượng Hải vào ngày 8 tháng 2, nó hoạt động dọc theo bờ biển Trung Quốc trong suốt mùa Xuân năm đó, chủ yếu ngoài khơi Thanh Đảo. Con tàu đi sang vùng biển Nhật Bản vào tháng 6, rồi khởi hành vào ngày 21 tháng 6 để quay trở về Hoa Kỳ. Từ tháng 6, 1948 đến tháng 2, 1949, chiếc tàu khu trục lại được cử sang hoạt động tại vùng biển Trung Quốc và Nhật Bản. Nó được cải biến thành một tàu khu trục cột mốc radar và được xếp lại lớp với ký hiệu lườn mới DDR-743 vào ngày 18 tháng 3, 1949.[1]

Chiến tranh Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Khi quân đội Bắc Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38 tấn công xuống lãnh thổ Nam Triều Tiên vào ngày 25 tháng 6, 1950, khiến Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Southerland đang hoạt động tại vùng biển quần đảo Hawaii. Nó đi sang Okinawa trong tháng 7, rồi tiếp tục đi sang Nhật Bản, và đến ngày19 tháng 7 bắt đầu làm nhiệm vụ tuần tra và bắn hỏa lực hỗ trợ ngoài khơi bờ biển Triều Tiên. Sang tháng 9, nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 90 và chuẩn bị cho Trận Inchon, cuộc đổ bộ bọc sườn sâu bên trong lãnh thổ do đối phương chiếm đóng. Được phân về Đội Hỗ trợ hỏa lực 3, nó đi đến ngoài khơi Inchon vào sáng ngày 15 tháng 9, bắt đầu bắn phá chuẩn bị xuống các mục tiêu trên đảo Wolmi-do và xuống chính thành phố Inchon. Sau khi diễn ra cuộc đổ bộ, nó tiếp tục hỗ trợ hải pháo cho trận chiến trên bộ, bắn pháo can thiệp và chiếu sáng vào ban đêm. Vào ngày 16 tháng 9, con tàu bị hư hại nhẹ do hỏa lực pháo đối phương bắn trả, và nó rút lui về hậu phương vào ngày hôm sau.[1]

Trong thời gian còn lại của năm 1950, Southerland hoạt động cùng các tàu sân bay thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 77 dọc suốt bờ biển Triều Tiên, trải dài từ Pusan đến WonsanCh'ongjin. Sang tháng 1, 1951, nó đi xuống phía Nam, và đến tháng 2 đã hoạt động cùng lực lượng tuần tra eo biển Đài Loan. Nó quay trở lại Nhật Bản trước khi lên đường quay trở về nhà. Một năm sau đó, vào ngày 10 tháng 2, 1952, chiếc tàu khu trục quay trở lại Nhật Bản, rồi đến ngày 14 tháng 2 đã gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 95, Lực lượng Bắn phá và Hộ tống Liên Hợp Quốc, ngoài khơi bờ biển phía Tây bán đảo Triều Tiên. Nó phục vụ hộ tống cho các tàu sân bay và tuần tra bờ biển, bắn phá ban đêm các tuyến đường tiếp liệu, các điểm tập trung quân và các vị trí pháo binh của đối phương.[1]

Vào tháng 3, Southerland tiến hành thực tập chống tàu ngầm tại khu vực ngoài khơi Okinawa, rồi sang tháng 4 quay trở lại vùng chiến sự, khi những thương lượng ngừng bắn giữa các phe tại Bàn Môn Điếm đi vào bế tắc. Gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 77, nó lại hộ tống cho các tàu sân bay, phục vụ canh phòng máy bay, và tham gia các hoạt động bắn phá bờ biển, bao gồm một đợt bắn phá phối hợp không kích xuống Ch'ongjin vào đúng ngày lễ Phục Sinh. Nó quay trở về Yokosuka vào ngày 18 tháng 4, rồi tiếp tục đi đến Okinawa để thực tập chống tàu ngầm trước khi gia nhập trở lại Lực lượng Đặc nhiệm 77 vào ngày 11 tháng 5. Trong 28 ngày tiếp theo, nó hộ tống cho các tàu sân bay trong chiến dịch không kích xuống Ch'ongjin, Wonsan, cùng các khu vực khác. Sang tháng 6, lực lượng đặc nhiệm chuyển sang không kích các mục tiêu sâu trong nội địa.[1]

Vào cuối tháng 6, khi cuộc chiến chuyển trọng tâm sang các hoạt động không kích, Southerland đi xuống phía Nam làm nhiệm vụ tuần tra tại eo biển Đài Loan. Nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 95 tại ngoài khơi bờ biển phía Đông bán đảo Triều Tiên vào ngày 10 tháng 7, và bốn ngày sau đó đã đụng độ với bảy khẩu đội pháo bờ biển đối phương, đấu pháo với chúng trong 23 phút. Bị bắn trúng bốn phát trực tiếp và chịu đựng tám người bị thương nhé, con tàu tự sửa chữa tạm thời ngoài biển và tiếp tục hoạt động tuần tra. Đến ngày 22 tháng 7, nó quay trở lại Sasebo để bắt đầu hành trình quay trở về Hoa Kỳ, và đã về đến cảng nhà San Diego vào ngày 10 tháng 8.[1]

Đến giữa tháng 4, 1953, Southerland khởi hành từ cho lượt phục vụ thứ ba trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên. Cho đến giữa tháng 5 và trong tháng 6, nó tuần tra ngoài khơi bờ biển Triều Tiên. Nó đi đến Nhật Bản vào ngày 27 tháng 6, và sau một tháng lại tiếp tục tuần tra giám sát việc tuân thủ ngừng bắn, do các bên liên quan đã kết kết một thỏa thuận hòa bình. Nó lên đường quay trở về nhà vào ngày 2 tháng 10.[1]

1954 - 1965[sửa | sửa mã nguồn]

Trong một thập niên tiếp theo, Southerland luân phiên các lượt phục vụ cùng Đệ Thất hạm đội tại khu vực Tây Thái Bình Dương với những hoạt động huấn luyện, bảo trì và đại tu cùng Đệ Nhất hạm đội tại vùng bờ Tây Hoa Kỳ. Tại Viễn Đông, nó tham gia các cuộc tập trận của Khối SEATO, tuần tra tại eo biển Đài Loan và thực hành huấn luyện cùng các đơn vị của Đệ Thất hạm đội. Từ cuối tháng 12, 1957 cho đến tháng 1, 1958, nó cùng tàu sân bay Princeton (CVS-37) và tàu khu trục Henderson (DD-785) tham gia hoạt động cứu trợ thiên tai tại Ceylon (nay là Sri Lanka) sau khi xảy ra lũ lụt tại đây; họ đã vận chuyển thực phẩm, thuốc men đến những người sống sót cũng như hỗ trợ các đội chăm sóc y tế. Khi hoạt động tại vùng bờ Tây Hoa Kỳ, nó tham gia các lượt thực hành huấn luyện và tập trận của Đệ Nhất hạm đội, vào năm 1962 đã gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 8 để tham gia Chiến dịch Dominic, hoạt động thử nghiệm vũ khí hạt nhân tại khu vực đảo Kiritimati.[1]

Đang khi có mặt tại khu vực Tây Thái Bình Dương vào tháng 11, 1963 để dự định tham gia các cuộc thực tập hỗ trợ đổ bộ, Southerland được lệnh khẩn cấp đi sang vùng biển Việt Nam, sau khi xảy ra cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Sau khi tình hình ổn định, nó quay trở về California để bắt đầu một đợt nâng cấp kéo dài mười tháng trong khuôn khổ Chương trình Hồi sinh và Hiện đại hóa Hạm đội I (FRAM: Fleet Rehabilitation and Modernization) được thực hiện tại Xưởng hải quân Mare Island. Nhằm mục đích kéo dài tuổi thọ phục vụ thêm 10-15 năm, con tàu được cải tiến khoang động cơ, nâng cấp thiết bị điện tử, các khoang nghỉ ngơi và phòng ăn được cải thiện tiện nghi hơn; dàn vũ khí chống ngầm được tăng cường kiểu tên lửa chống ngầm RUR-5 ASROC. Con tàu được xếp lại lớp và quay trở lại ký hiệu lườn cũ DD-743 vào ngày 1 tháng 4, 1964, và sau khi công việc xưởng tàu kết thúc vào tháng 10, 1964, nó vận hành thử nghiệm thiết bị mới và thực hành huấn luyện cho đến tháng 3, 1965.[1]

Chiến tranh Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Southerland khởi hành vào ngày 6 tháng 3, 1965, hướng sang phía Tây cho lượt phục vụ tiếp theo tại Viễn Đông. Nó gia nhập cùng Lực lượng Đặc nhiệm 77 tại khu vực biển Đông, và giống như tại Triều Tiên, nó hộ tống cho các tàu sân bay và phục vụ canh phòng máy bay khi lực lượng tàu sân bay không kích các mục tiêu của đối phương tại Việt Nam. Sau đó nó được huy động tham gia Chiến dịch Market Time theo dõi các tàu đánh cá tình báo nước ngoài. Trong hai dịp vào cuối tháng 6, chiếc tàu khu trục được tách ra để hỗ trợ hải pháo cho cuộc chiến trên bộ tại khu vực tác chiến của Quân đoàn I, trợ giúp vào việc tiêu diệt nhiều căn cứ và tuyến đường tiếp liệu của đối phương.[1]

Southerland trên đường đi, tháng 8 năm 1967.

Southerland quay trở về San Diego vào ngày 11 tháng 9 để nghỉ ngơi, sửa chữa và huấn luyện. Chín tháng sau, nó lại lên đường cho một lượt hoạt động khác trong cuộc Chiến tranh Việt Nam. Nó đi đến ngoài khơi bờ biển Việt Nam vào ngày 8 tháng 7, 1966, và trong mười một ngày đã hoạt động cùng tàu sân bay Intrepid (CVS-11) gần khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Được cho tách ra vào ngày 19 tháng 7 để làm nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực, nó gia nhập trở lại cùng chiếc tàu sân bay vào ngày 28 tháng 7, và đến cuối tháng đó đã quay trở về căn cứ vịnh Subic, Philippines để nghỉ ngơi, bảo trì và tiếp liệu. Chiếc tàu khu trục trở lại Việt Nam vào ngày 7 tháng 8, và cho đến cuối tháng đó đã hoạt động cùng tàu sân bay Franklin D. Roosevelt (CVA-42) trong vịnh Bắc Bộ. Các hoạt động thực hành chống tàu ngầm được tiếp nối sau đó cho đến giữa tháng 9, khi nó lên đường đi Nhật Bản. Đến cuối tháng 10, con tàu quay trở lại vịnh Bắc Bộ làm công tác tìm kiếm và giải cứu những phi công bị bắn rơi.[1]

Southerland hoàn tất lượt phục vụ tại Việt Nam và khởi hành vào ngày 23 tháng 11 để quay trở về nhà. Vào tháng 2, 1967, nó phục vụ như một tàu huấn luyện chống ngầm, rồi sang tháng 3 tiếp tục hoạt động như một tàu huấn luyện kỹ thuật. Con tàu được đại tu từ tháng 4 đến tháng 8, rồi sang mùa Thu đã tiến hành huấn luyện ôn tập. Nó lại lên đường vào ngày 28 tháng 12 cho một lượt phục vụ khác tại khu vực Tây Thái Bình Dương và Việt Nam.[1]

Từ đó cho đến ngày 28 tháng 6, 1968, và trong một giai đoạn khác từ ngày 18 tháng 3 đến ngày 3 tháng 7, 1969, Southerland phục vụ cùng Đệ Thất hạm đội trong những nhiệm vụ tương tự tại Việt Nam như những năm 19651966. Sang năm 1970, nó lên đường vào giữa tháng 6 và hoạt động tại vùng biển Nhật Bản cho đến cuối tháng 7, rồi đi xuống phía Nam và bắt đầu hoạt động ngoài khơi Việt Nam từ ngày 6 tháng 8. Tại đây nó luân phiên giữa các nhiệm vụ hộ tống tàu sân bay và canh phòng máy bay trong vịnh Bắc Bộ với vai trò bắn hải pháo hỗ trợ dọc bờ biển Nam Việt Nam, cho đến giữa tháng 11. Con tàu quay trở về San Diego vào ngày 1 tháng 12.[1]

Trong giai đoạn đầu năm 1971, Southerland trải qua hai đợt thực hành cùng Đơn vị Huấn luyện Hỗn hợp vào tháng 1tháng 4 tại khu vực thực tập Nam California. Vào ngày 29 tháng 6, nó khởi hành từ San Diego để hướng sang khu vực Tây Thái Bình Dương, và đã hoạt động tại Viễn Đông cho đến ngày 5 tháng 12. Nó đã phục vụ canh phòng máy bay cho tàu sân bay Enterprise (CVAN-65), đồng thời viếng thăm các cảng Hong Kong, Singapore và vịnh Subic. Sau hành trình mất 17 ngày, nó về đến San Diego vào ngày 22 tháng 12. Nó đi vào Xưởng hải quân Long Beach vào ngày 2 tháng 6, 1972 cho một lượt đại tu kéo dài đến ngày 9 tháng 11; công việc trong xưởng tàu bao gồm việc cải biến hệ thống động cơ để sử dụng nhiên liệu chưng cất hải quân.[1]

1972 - 1981[sửa | sửa mã nguồn]

Southerland tiếp tục các hoạt động thường lệ từ San Diego và dọc theo bờ biển Nam California cho đến giữa tháng 6, 1973. Nó khởi hành từ San Diego vào ngày 11 tháng 6 để đi đến Seattle, Washington, nơi nó đón lên tàu những học viên sĩ quan dự bị cho một chuyến đi thực tập đến khu vực Tây Thái Bình Dương ngang qua Adak, Alaska. Trong thời gian còn lại của mùa Hè, con tàu tham cuộc Tập trận Charger SurfPac 1-73, khi các lượt học viên sĩ quan dự bị tiếp theo có dịp thực hành huấn luyện cùng các hoạt động của Đệ Thất hạm đội, cũng như phối hợp với hải quân các nước đồng minh. Khả năng huy động khẩn cấp thành phần dự bị để tăng cường cho hạm đội khi cần thiết được thể hiện qua việc không vận các nhóm sĩ quan dự bị theo lịch trình ngay giữa cuộc tập trận.[1]

Hoàn thành cuộc tập trận, Southerland quay trở về San Diego vào ngày 30 tháng 8, 1973. Từ tháng 9, 1973 cho đến tháng 9, 1974, nó tiếp tục hoạt động thực hành cho sĩ quan dự bị từ San Diego và dọc theo bờ biển Nam California, ngoại trừ một chuyến viếng thăm Trân Châu Cảng, Hawaii vào cuối tháng 2 vào đầu tháng 3. Chuyến đi có sự tháp tùng của tàu frigate Anh HMS Jupiter (F60); và hai con tàu đã hoạt động huấn luyện phối hợp, bao gồm cả việc hoán đổi thành viên thủy thủ đoàn qua đường dây cáp treo giữa hai tàu và quay trở lại bằng máy bay trực thăng.[1]

Trong thời gian còn lại của cuộc đời hoạt động, Southerland tiếp tục vai trò tàu huấn luyện cho lực lượng hải quân dự bị, thi hành nghĩa vụ phục vụ hai tuần bắt buộc hàng năm. Vào mùa Hè năm 1980, thành phần thủy thủ đoàn đầy đủ bị cắt giảm khoảng hai phần ba, và được thay thế bởi những học viên dự bị. Con tàu thực hiện chuyến đi ra nước ngoài lần cuối cùng vào tháng 8, 1980, ghé đến Mazatlán để tiếp nhiên liệu trước khi tiếp tục đi đến cảng Acapulco de Juárez, Mexico, và ở lại cảng này trong ba ngày trước khi lên đường quay trở về San Diego. Sang mùa Thu năm đó, nó tham gia nhiều đợt thực hành tác xạ và thực tập huấn luyện ngoài khơi phía Nam đảo San Clemente.[1]

Các tàu khu trục SoutherlandHollister (DD-788) đã xuất biên chế tại Puget Sound, năm 1981.

Southerland được cho xuất biên chế đồng thời rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 26 tháng 2, 1981. Những thương lượng nhằm chuyển giao con tàu cho Hải quân Ecuador không đem lại kết quả, và sau khi bị bỏ không tại Xưởng hải quân Puget Sound, Bremerton, Washington, nó được sử dụng như mục tiêu thử nghiệm tên lửa. Nó bị đánh chìm ngoài khơi bờ biển California vào ngày 2 tháng 8, 1997, tại tọa độ 34°57′B 122°08′T / 34,95°B 122,133°T / 34.950; -122.133 (USS Southerland (DD-743)).[2]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Southerland được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, thêm tám Ngôi sao Chiến trận khác trong Chiến tranh Triều Tiên, và thêm mười Ngôi sao Chiến trận nữa trong Chiến tranh Việt Nam.[1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u “Southerland (DD-743)”. Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2020.
  2. ^ Willshaw, Fred (2009). “USS Southerland (DD-743 / DDR-743)”. NavSource.org. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]