USS Trathen (DD-530)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu khu trục USS Trathen (DD 530)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Trathen (DD 530)
Đặt tên theo Thiếu tá Hải quân James Trathen
Xưởng đóng tàu Bethlehem Shipbuilding Corporation, San Francisco, California
Đặt lườn 17 tháng 3 năm 1942
Hạ thủy 22 tháng 10 năm 1942
Người đỡ đầu bà Cassin Young
Nhập biên chế 28 tháng 5 năm 1943
Tái biên chế 1 tháng 8 năm 1951
Xuất biên chế 18 tháng 1 năm 1946 11 tháng 5 năm 1965
Xóa đăng bạ 1 tháng 11 năm 1972
Danh hiệu và phong tặng
Số phận Sử dụng như một mục tiêu, tháng 11 năm 1973, tháo dỡ sau đó
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Fletcher
Kiểu tàu Tàu khu trục
Trọng tải choán nước
  • 2.100 tấn Anh (2.100 t) (tiêu chuẩn)
  • 2.924 tấn Anh (2.971 t) (đầy tải)
Chiều dài 376 ft 5 in (114,73 m) (chung)
Sườn ngang 39 ft 08 in (12,09 m) (chung)
Mớn nước 13 ft 9 in (4,19 m) (đầy tải)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số
  • 2 × trục
  • công suất 60.000 shp (45.000 kW)
Tốc độ 36 kn (41 mph; 67 km/h)
Tầm xa 6.500 nmi (12.000 km) ở tốc độ 15 kn (17 mph; 28 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 336 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

USS Trathen (DD-530) là một tàu khu trục lớp Fletcher được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ được đặt theo tên Thiếu tá Hải quân James Trathen, hạm trưởng chỉ huy chiếc USS Midnight (1861) trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Nó được cho xuất biên chế không lâu sau khi Thế Chiến II kết thúc, tái biên chế trở lại năm 1951 và tiếp tục hoạt động trong Chiến tranh Triều TiênChiến tranh Việt Nam, cho đến khi ngừng hoạt động năm 1965, rút đăng bạ năm 1972 và được sử dụng như một mục tiêu tác xạ cho đến khi bị tháo dỡ. Nó được tặng thưởng tám Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, và thêm hai Ngôi sao Chiến trận nữa trong Chiến tranh Triều Tiên.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Trathen được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bethlehem Shipbuilding Corporation, ở San Francisco, California vào ngày 17 tháng 3 năm 1942. Nó được hạ thủy vào ngày 22 tháng 10 năm 1942; được đỡ đầu bởi bà Cassin Young, phu nhân Đại tá Hải quân Cassin Young (1894-1942), người được tặng thưởng Huân chương Danh dự khi chỉ huy tàu sửa chữa USS Vestal (AR-4) trong trận Trân Châu Cảng. Con tàu nhập biên chế vào ngày 28 tháng 5 năm 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Alvoord J. Greenacre.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1943[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi huấn luyện tại khu vực quần đảo Hawaii, Trathen gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 11 dưới quyền Chuẩn đô đốc Willis A. Lee để tham gia vào việc tái chiếm đảo Baker. Mục tiêu này là một hòn đảo nhỏ hình ellip cạnh quần đảo Gilbert do quân Nhật chiếm giữ, ở gần hơn so với Funafuti thuộc nhóm quần đảo Ellice; Baker có giá trị đáng kể như một khu vực tập trung lực lượng và tiến hành trinh sát bằng hình ảnh các mục tiêu đối phương. Đặt cờ hiệu trên soái hạm USS Hercules, Đô đốc Lee dẫn đầu Lực lượng Đặc nhiệm 11 khởi hành từ Trân Châu Cảng vào ngày 25 tháng 8 năm 1943, đi đến ngoài khơi Baker vào ngày 1 tháng 9. Trong khi các tàu vận tải và USS Ashland cho đổ bộ binh lính và hàng hóa lên đảo, chiếc tàu khu trục đã canh phòng và làm nhiệm vụ dẫn đường tác chiến cho các máy bay tiêm kích F6F Hellcat từ các tàu sân bay USS Belleau WoodUSS Princeton. Trong quá trình trận chiến, nó đã dẫn đường những chiếc F6F đánh chặn một mục tiêu phát hiện qua radar ở cách 32 mi (51 km); đối thủ là một thủy phi cơ Kawanishi H8K "Emily", và mục tiêu bị tiêu diệt nhanh đến mức nó không kịp gửi báo cáo qua vô tuyến. Hai ngày sau, chiếc tàu khu trục lại dẫn đường cho những chiếc Hellcat ngăn chặn một chiếc Emily khác, bắn rơi nó xuống biển.

Sau khi Baker được bình định và sân bay trên đảo này được xây dựng và sẵn sàng hoạt động vào ngày 11 tháng 9, Trathen quay trở về Hawaii. Vào ngày 29 tháng 9, nó tham gia thành phần hộ tống cho Đội đặc nhiệm 14.5 khởi hành từ Trân Châu Cảng hướng đến đảo Wake. Dưới quyền chỉ huy của Chuẩn đô đốc Alfred E. Montgomery, lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh này, lực lượng tàu sân bay lớn nhất từng được tập trung cho đến lúc đó, bao gồm Essex (CV-9), Yorktown (CV-10), Lexington (CV-16), USS Cowpens (CVL-25), Independence (CVL-22)Belleau Wood. Trong các ngày 56 tháng 10, máy bay từ tàu sân bay của Montgomery đã thực hiện sáu đợt không kích với tổng cộng 738 phi vụ, trong khi hải pháo từ các thiết giáp hạmtàu tuần dương tiếp tục phá hủy các cơ sở căn cứ đối phương trên hòn đảo này. Cho dù bị hư hại nứt vỏ động cơ turbine áp lực cao, Trathen vẫn có thể rút lui cùng lực lượng đặc nhiệm về phía quần đảo Hawaii, về đến Trân Châu Cảng vào ngày 11 tháng 10.

Những sửa chữa tạm thời tại Trân Châu Cảng cho phép Trathen lên đường đi Bremerton, Washington, để được sửa chữa động cơ tại Xưởng hải quân Puget Sound. Nó khởi hành để đi quần đảo Hawaii vào ngày 21 tháng 11, đi đến Trân Châu Cảng sáu ngày sau đó. Sau đợt thực tập huấn luyện cùng máy bay đặt căn cứ trên đất liền ngoài khơi Oahu, sĩ quan chỉ huy của nó được cử làm Tư lệnh Đơn vị Đặc nhiệm 16.15.2, bao gồm Trathen cùng tàu khu trục hộ tống Martin (DE-30) và SS Mormacport. Các con tàu lên đường đi ngang qua đảo Canton, FunafutiTarawa, đi đến đảo Makin vào ngày 18 tháng 12. Ngày hôm sau, chiếc tàu khu trục di chuyển nhanh trong 125 mi (201 km) để cứu vớt đội bay của một thủy phi cơ PBY Catalina bị rơi, và quay trở về Makin vào ngày 20 tháng 12. Trong chặng quay trở về, radar của nó bắt được tín hiệu một phi đội máy bay ném bom Nhật Bản đang hướng đến quần đảo Gilbert. Rõ ràng là đang làm nhiệm vụ quan trọng nên chúng bỏ qua chiếc tàu khu trục. Chiếc máy bay bay gần nhất bị các khẩu pháo phòng không nhắm bắn, nhưng không bị hư hại gì.

Sau khi đi đến đảo Abemama Trathen cùng tàu khu trục hộ tống Le Hardy (DE-20) lên đường vào ngày 25 tháng 12 để hộ tống SS Mormacport quay trở lại Hawaii. Một ngày sau, một chiếc "Emily" phát hiện ra đoàn tàu, nhưng chiếc thủy phi cơ ở bên ngoài tầm bắn của các khẩu pháo phòng không. Tách khỏi Le Hardy chiều tối hôm đó, TrathenMormacport tiếp tục hướng đến Hawaii, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 1 tháng 1 1944. Nó tiến hành các cuộc thực tập tác xạ tại khu vực Hawaii trước khi rời Trân Châu Cảng vào ngày 23 tháng 1 để hướng sang quần đảo Marshall.

1944[sửa | sửa mã nguồn]

Tiến vào vũng biển Kwajalein vào ngày 2 tháng 2, Trathen thay phiên cho tàu khu trục Schroeder (DD-500) ngoài khơi đảo này trong vai trò tàu hỗ trợ hỏa lực, bắn phá các vị trí Nhật Bản trên bờ cho đến khi mọi mục tiêu bị tiêu diệt. Vào ngày 5 tháng 2, nó tham gia cùng tàu khu trục McCord (DD-534) cùng các tàu tuần dương hạng nặng Minneapolis (CA-36)San Francisco (CA-38) ngoài khơi Gugegwe, bắn pháo hỗ trợ cho ba tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đổ bộ trên sáu tàu đổ bộ LST, khi họ tấn công lên bờ với 17 xe bọc thép lội nước và 16 xe tăng M4 Sherman. Đến 07 giờ 20 phút, chiếc tàu khu trục khai hỏa dàn pháo chính 5 inch hỗ trợ cho cuộc đổ bộ.

Trathen tiếp tục nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực cho đến khi chiến dịch Kwajalein kết thúc vào ngày 7 tháng 2; nó lên đường quay trở về Majuro vào ngày hôm sau, và đến nơi vào ngày 9 tháng 2. Ngay ngày hôm sau, nó quay trở lại Kwajalein để tuần tra chống tàu ngầm. Chiếc tàu khu trục đã hợp cùng tàu tuần dương hạng nặng Indianapolis (CA-35) ngoài khơi Eniwetok. Căn cứ trên những tin tức tình báo không chính xác rằng hòn đảo không được đối phương chiếm đóng, họ chỉ bắn phá sơ sài các mục tiêu tại đây; trong khi đó, tài liệu chiếm được tại Kwajalein cho thấy Eniwetok thực ra được phòng thủ rất chắc chắn bởi những đơn vị Nhật Bản tinh nhuệ.

Quá trễ để có thể thay đổi kế hoạch, Indianapolis cùng tàu tuần dương nữa chị em Portland (CA-33), có TrathenHoel (DD-533) tháp tùng, được bố trí bên sườn các tàu đổ bộ LCI trong khi các xe thiết giáp lội nước LVT nước bố trí ở giữa; Trathen hộ tống cho Indianapolis trong khi Hoel tháp tùng Portland, và họ hợp cùng các pháo hạm LCI bắn phá hòn đảo. Eniwetok nhanh chóng bị khuất phục trước sức mạnh áp đảo của lực lượng không-hải Hoa Kỳ, và Trathen thỉnh thoảng lại cần bắn pháo hỗ trợ cho đến ngày 29 tháng 2, và ở lại đây cho đến ngày 4 tháng 3, khi nó lên đường đi Majuro để bảo trì.

Sau khi thực tập tại vịnh Purvis thuộc quần đảo Solomon và làm nhiệm vụ tuần tra giữa các đảo EmirauNew Hanover, Trathen gia nhập Đệ Thất hạm đội vào ngày 3 tháng 5. Nó rời đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty vào ngày 15 tháng 5 cùng các lực lượng đặc nhiệm 74 và 75 để hướng sang vùng biển New Guinea, nhắm đến mục tiêu: đảo Wakde. Bị Nhật Bản chiếm đóng năm 1942, nơi đây cung cấp một đường băng và các căn cứ hậu cần hữu ích cho phía Đồng Minh trong các chiến dịch nhảy cóc để tiếp cận Philippines và Nhật Bản. Đến nơi vào ngày 17 tháng 5, chiếc tàu khu trục bắn pháo hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ lên Wakde, rồi sau đó hoạt động dọc theo bờ biển hỗ trợ cho cuộc tấn công tiếp theo cho đến ngày 25 tháng 5, khi nó lên đường đi đến đảo Biak.

Biak là đảo lớn nhất trong quần đảo Schouten, là mục tiêu tiếp theo trong kế hoạch tác chiến của hải quân. Lực lượng bắn phá đi đến ngoài khơi các bãi đổ bộ 15 phút sớm hơn lịch trình, và đến 06 giờ 29 phút sáng ngày 27 tháng 5, các tàu tuần dương hạng nhẹ Phoenix (CL-46), Boise (CL-47)Nashville (CL-43) bắt đầu nả hải pháo 6-inch xuống các mục tiêu, bắn hơn 1.000 quả đạn pháo; trong khi các tàu khu trục săn tìm những mục tiêu nhỏ hơn như tàu tuần tra dọc theo bờ biển. Đến 11 giờ 00, bốn máy bay tiêm kích Nhật Bản bay ngang sân bay Biak; hai máy bay tiêm kích-bom xuất hiện trễ hơn lúc xế trưa, rồi tiếp nối bởi bốn máy bay ném bom hai động cơ. Ba chiếc đã bị hỏa lực phòng không bắn rơi, và chiếc thứ tư bị hư hại. Trathen tiếp tục tuần tra ngoài khơi Schouten cho đến ngày 31 tháng 5, khi nó rút lui về vịnh Humboldt để gia nhập trở lại Lực lượng Đặc nhiệm 75.

Nỗ lực đầu tiên của phía Nhật Bản nhằm tăng viện về hướng Biak bị phát hiện, và đối phương đã quay mũi rút lui. Vào ngày 3 tháng 6, các lực lượng đặc nhiệm 74 và 75 được lệnh truy kích lực lượng Nhật Bản đang rút lui, và lúc 23 giờ 18 phút ngày 3 tháng 6, Trathe n lên đường cùng các đơn vị khác của Đội khu trục 48 để truy đuổi. Sang ngày hôm sau, mười máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A "Val" đã tìm cách tấn công lực lượng đặc nhiệm, nhưng bị đánh đuổi. Đến ngày 5 tháng 6, máy bay ném bom-ngư lôi Nhật Bản lại tấn công lực lượng, và một chiếc đã bị hỏa lực phòng không của chiếc tàu khu trục bắn rơi.

Không lâu sau, đối phương tổ chức một đợt tăng viện khác cho lực lượng đang bị vây hãm tại Biak. Sáu tàu khu trục Nhật Bản, gồm ba chiếc chở quân và ba chiếc kéo theo các sàn lan đổ bộ, đã gia nhập cùng các tàu tuần dương AobaKinu về phía Bắc đảo Misool, dưới sự chỉ huy của Chuẩn đô đốc Naomasa Sakonju bên trên soái hạm là tàu khu trục Shikinami. Lực lượng đối phương di chuyển về hướng Biak mà không bị phát hiện, mãi cho đến khi mười máy bay ném bom tầm trung B-25 Mitchell, được những máy bay tiêm kích P-38 Lightning hộ tống, phát hiện và tấn công, đánh chìm Harusame và làm hư hại ba tàu khu trục khác. Tiếp tục hướng về phía Biak sau khi máy bay ném bom rút lui, đối phương không biết rằng họ đang hướng thẳng vào lực lượng tuần dương-khu trục dưới quyền Phó đô đốc Victor Crutchley, đang tuần tra tại khu vực giữa Biak và Hollandia.

Không biết được vị trí lực lượng của Sakonju, Crutchley quyết định càn quét dọc theo bờ biển Biak. Lúc khoảng 22 giờ 00 đêm 8 tháng 6, một thủy phi cơ tuần tra đêm Consolidated PBY Catalina phát hiện lực lượng Nhật Bản, và báo các về năm tàu không rõ nhận dạng đang đi với tốc độ 12 kn (22 km/h) về hướng các tàu tuần dương-khu trục của Crutchley. Vị đô đốc Anh triển khai đội hình chiến đấu lên phía Bắc và ra lệnh báo động; các tàu Nhật cũng phát hiện đối thủ và đổi hướng để tấn công bằng ngư lôi trước khi rút lui. Các đội khu trục Hoa Kỳ được tung ra để truy kích hạm đội Nhật Bản rút lui; tuy nhiên Đội khu trục 48 của Trathen đi phía sau các đội khu trục 42 và 47, nên được lệnh của Crutchley quay trở lại để hộ tống các tàu tuần dương. Lực lượng Hoa Kỳ không thể bắt kịp đối thủ đã rút chạy, và họ quay trở về vịnh Humboldt vào ngày hôm sau.

Trathen sau đó tham gia cuộc chiếm đóng đảo Noemfoor, khi được phân về Đội đặc nhiệm 77.2, lực lượng bảo vệ, và làm nhiệm vụ bắn phá bờ biển tại đây vào ngày 2 tháng 7 trước khi rút lui về vịnh Humboldt. Nó lại phục vụ trong thành phần bảo vệ cho cuộc đổ bộ lên mũi Sansapor, New Guinea vào ngày 30 tháng 7, thả màn khói ngụy trang và tuần tra trong phạm vi 25 mi (40 km) ngoài khơi để bảo vệ cho cuộc đổ bộ. Con tàu được nghỉ ngơi và bảo trì tại Sydney, Australia từ ngày 13 đến ngày 20 tháng 8, trước khi quay trở lại hoạt động tập trận và thực hành tại khu vực phụ cận vịnh Purvis, nhằm chuẩn bị cho chiến dịch Tây quần đảo Caroline. Con tàu rời vịnh Purvis vào ngày 6 tháng 9 trong thành phần Đội đặc nhiệm 32.5, và sau khi hộ tống các tàu sân bay tung ra các cuộc không kích hỗ trợ cho việc đổ bộ lên Palau, nó rút lui vào ngày 26 tháng 9 để tiếp nhiên liệu và tiếp liệu tại Kossol Passage.

Trathen đi đến Manus vào ngày 2 tháng 10, nơi nó được điều động vào Đội đặc nhiệm 77.4, rồi lên đường hướng sang vịnh Leyte thuộc quần đảo Philippine. Các cuộc đổ bộ lên đảo Dinagatđảo Suluan, ở lối ra vào vịnh Leyte được tiến hành vào ngày 17 tháng 10, khi con tàu đã trực chiến sẵn sàng bắn hỏa lực hỗ trợ và phòng không. Ba ngày sau, ba máy bay tiêm kích đối phương xuất hiện, bay thấp trên khu vực do con tàu bảo vệ. Trong vòng vài phút, hỏa lực phòng không đã bắn rơi một máy bay, thậm chí còn bắt được viên phi công của chiếc máy bay, và sau đó chuyển tù binh sang tàu sân bay hộ tống Sangamon (CVE-26). Một lần nữa, máy bay Nhật Bản lại quấy rối các con tàu thuộc lực lượng tấn công, và máy bay tiêm kích tuần tra chiến đấu trên không (CAP) đã bắn rơi thêm hai chiếc vào ngày 24 tháng 10.

Trathen rút lui về Manus vào đầu tháng 11, để rồi quay trở lại vịnh Leyte vào ngày 16 tháng 11 để tuần tra khu vực eo biển Surigao. Thay phiên cho tàu khu trục Sigourney (DD-643) vào ngày 19 tháng 11, nó ở lại khu vực Philippines cho đến ngày 23 tháng 11, khi nó hướng sang phía Tây Caroline. Nó đã đánh chìm một sà lan đối phương bằng hỏa lực pháo 5-inch và 40-mm trên đường đi trước khi đi đến Ulithi vào ngày 25 tháng 11.

1945[sửa | sửa mã nguồn]

Trathen thực hành ngoài khơi Ulithi từ ngày 30 tháng 11 đến ngày 29 tháng 12, trước khi gia nhập Đội đặc nhiệm 38.2 vào ngày 5 tháng 1 năm 1945. Nó đã phục vụ như tàu canh phòng máy bay và tàu hộ tống cho đội này và Đội đặc nhiệm 38.5 cho đến cuối tháng. Đội đặc nhiệm 38.2 tiến hành không kích chuẩn bị xuống đảo Luzon, trước khi hướng sang Biển Đông cho một loạt các cuộc không kích xuống Đài Loan vốn do Nhật Bản chiếm từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 1, rồi xuống tàu bè và cơ sở Nhật Bản dọc theo bờ biển Đông Dương thuộc Pháp. Lực lượng lại hướng lên phía Bắc, ném bom xuống Hong Kong và đảo Hải Nam mà hầu như không gặp sự kháng cự của máy bay hay tàu chiến đối phương. Đội đặc nhiệm gặp phải thời tiết xấu trong các ngày 1718 tháng 1.

Sau khi rời Biển Đông ngang qua eo biển Balintang, Trathen và đồng đội tham gia các cuộc không kích khác lên Đài Loan và bắn phá Sakishima Gunto, vốn được Nhật Bản sử dụng như điểm tập trung cho các cuộc tấn công Kamikaze. Trong vai trò bảo vệ và canh phòng máy bay, nó di chuyển ở phía đuôi tàu sân bay Hancock (CV-19) vào ngày 21 tháng 1, và chứng kiến một chiếc Grumman TBF Avenger bị nổ tung khi hạ cánh quá mạnh xuống sàn đáp. Một người trên chiếc tàu sân bay bị vụ nổ hất tung xuống biển, nhưng Trathen đã cứu anh ta lên khỏi mặt nước.

Sau cuộc không kích lên Okinawa, Trathen khởi hành từ Ulithi vào ngày 10 tháng 2 để hỗ trợ cho các hoạt động của tàu sân bay tại khu vực giữa Iwo Jima và các đảo chính quốc Nhật Bản. Sáu ngày sau, Lực lượng Đặc nhiệm 58 thực hiện cuộc không kích đầu tiên xuống Tokyo từ một điểm cách 150 mi (240 km) về phía Đông Nam thủ đô của Đế quốc. Họ rút lui vào ban đêm rồi tiếp tục những đợt không kích khác trong ngày hôm sau. Để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Iwo Jima, Trathen đi đến khu vực phụ cận vào ngày 20 tháng 2, và đã bảo vệ cho các tàu sân bay khi chúng tung ra các phi vụ trong suốt bốn ngày tiếp theo, hỗ trợ cho binh lính Thủy quân Lục chiến tấn công trên bộ.

Trathen hộ tống cho lực lượng đặc nhiệm càn quét lên phía Bắc, đi đến một địa điểm ngoài khơi Tokyo vào sáng sớm ngày 25 tháng 2, và lại không kích xuống thành phố này. Đêm đó, các tàu sân bay di chuyển về phía Nagoya, nhưng thời tiết xấu đã buộc phải hủy bỏ kế hoạch ném bom thành phố công nghiệp này vào ngày 26 tháng 2. Đang khi ở vùng biển Nhật Bản, Trathen và đồng đội phát hiện những quả thủy lôi trôi nổi trên biển; bản thân chiếc tàu khu trục đã phá hủy một quả bằng hải pháo vào ngày 27 tháng 2.

Sau khi được bảo trì và nghỉ ngơi tại Ulithi, Trathen quay trở lại tuyến đầu vào ngày 14 tháng 3, gặp gỡ Đội đặc nhiệm 58.4 nhằm chuẩn bị cho đợt không kích lên các đảo chính quốc Nhật Bản và Okinawa. Được tạm thời cho tách ra để cứu vớt một phi công bị bắn rơi, nó gia nhập trở lại đội đặc nhiệm đang hướng về phía Nhật Bản, và tiếp tục phá hủy nhiều quả mìn trôi dạt đang khi bảo vệ cho các tàu sân bay. Máy bay Kamikaze đối phương tìm cách len lỏi qua hàng rào tuần tra chiến đấu trên không để tấn công tự sát xuống các con tàu, và hỏa lực phòng không từ đội của Trathen đã bắn rơi năm máy bay đối phương. Tuy nhiên họ không ngăn được một chiếc đâm trúng tàu sân bay Intrepid (CV-11) vào ngày 18 tháng 3. Chín ngày sau, nó cùng các tàu tuần dương lớn Alaska (CB-1)Guam (CB-2), các tàu tuần dương Flint (CL-97)San Diego (CL-53) cùng bốn tàu khu trục khác tách khỏi đội hình tàu sân bay để bắn phá Minami Daito Shima. Các con tàu gia nhập trở lại lực lượng vào ngày 28 tháng 3, tiếp nối vai trò hộ tống.

Trong những tháng tiếp theo, được sự trợ giúp của Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Anh, lực lượng Hoa Kỳ tiếp tục đánh phá các đảo chính quốc Nhật Bản bằng các cuộc không kích và bắn phá bằng hạm tàu nổi. Tiếp tục phối thuộc cùng Lực lượng Đặc nhiệm 58, Trathen vào ngày 11 tháng 4 đã giúp chống trả máy bay Nhật Bản phản công bằng hỏa lực phòng không. Trong đợt tấn công thứ ba của đối phương trong ngày, một quả đạn pháo 5-inch từ một tàu bạn đã bắn nhầm trúng vào phòng đạn pháo tháp pháo 5-inch số 5 phía đuôi tàu, làm ba người thiệt mạng và bị thương 21 người, và khiến khẩu pháo phía đuôi không thể hoạt động.

Trathen bị buộc phải rút lui về Ulithi để sửa chữa, rồi lên đường vào ngày 3 tháng 5 và gia nhập trở lại Lực lượng Đặc nhiệm 58 gần Okinawa vào ngày 5 tháng 5. Sáu ngày sau, soái hạm của Lực lượng Đặc nhiệm 58, tàu sân bay Bunker Hill (CV-17), bị một máy bay Kamikaze đánh trúng; một máy bay tự sát khác nhắm vào Trathen và lao thẳng đến nó. Trong khi các dàn pháo phòng không trên tàu ra sức ngăn chặn kẻ tấn công, một sự trợ giúp đã đến từ trên không. Một máy bay tuần tra chiến đấu trên không, bất chấp có thể bị bắn nhầm bởi hỏa lực phòng không từ các con tàu, đã tiếp cận và bắn rơi kẻ tấn công xuống biển phía mũi Trathen bên mạn trái.

Trathen rút lui về Ulithi để ngghỉ ngơi trước khi lên đường mười ngày sau đó cùng Đội đặc nhiệm 58.4 để hộ tống các tàu sân bay. Vào ngày 4 tháng 6, các hoạt động không quân bị hủy bỏ do kim chỉ thị trên phong vũ biểu hạ thấp, vả một cơn bão đã đi ngang với tâm bão cách lực lượng đặc nhiệm khoảng 70 mi (110 km) về phía Đông Nam. Các con tàu trong đội thoát được mà không gặp hư hại. Đang khi làm nhiệm vụ canh phòng máy bay vào ngày 6 tháng 6, chiếc tàu khu trục đã giải cứu đội bay hai người của một chiếc SB2C Helldiver bị bắn rơi; cả hai người đã được vớt lên, nhưng viên phi công đã tử trận khi được đưa lên tàu.

Đây trở thành những hoạt động sau cùng của Trathen trong Thế Chiến II, vì nó khởi hành đi Leyte để bắt đầu hành trình dài quay trở về Hoa Kỳ. Sau một chặng dừng tại Trân Châu Cảng, nó về đến Seattle, Washington vào ngày 9 tháng 7, và được đại tu tại xưởng tàu của hãng Todd Shipbuilding Co. Đang khi sửa chữa, Nhật Bản đầu hàng kết thúc cuộc xung đột; và sau khi hoàn tất việc tái trang bị, nó lên đường đi San Diego vào ngày 29 tháng 9, đến nơi vào ngày 2 tháng 10. Con tàu được cho xuất biên chế vào ngày 18 tháng 1 năm 1946, và neo đậu cùng Đội San Diego thuộc Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương.

1951 - 1965[sửa | sửa mã nguồn]

Khi sự kiện Chiến tranh Triều Tiên nổ ra do lực lượng Bắc Triều Tiên băng qua vĩ tuyến 38 vào ngày 25 tháng 6 năm 1950, Hoa Kỳ đã đưa quân đội đến trợ giúp Nam Triều Tiên. Do đó, Trathen được đưa ra khỏi lực lượng dự bị vào ngày 14 tháng 6 năm 1951 và nhập biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 8. Trong vai trò soái hạm của Hải đội Khu trục 28, nó được điều động sang Hạm đội Đại Tây Dương vào ngày 5 tháng 10, đặt căn cứ tại Norfolk, Virginia, và hoạt động dọc theo vùng bờ Đông và vùng biển Caribe cho đến hết năm 1952.

Được lệnh đi sang Viễn Đông sau đó, Trathen đi đến Sasebo, Nhật Bản vào ngày 12 tháng 2 năm 1953; được phái sang hoạt động tại Triều Tiên, nó đã bắn phá các mục tiêu ga đường sắt, tàu hỏa, công sự phòng thủ và trạm biến thế. Nó phá hủy một đoàn tàu hỏa vào ngày 11 tháng 3, và sau khi hoàn tất nhiệm vụ tuần tra tại khu vực giữa WonsanHungnam hai ngày sau đó, con tàu được thay phiên và quay trở về Sasebo để sửa chữa. Gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 77 sau đó, nó tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến ngày 7 tháng 6, rời Sasebo vào ngày hôm sau để hướng đi Hong Kong.

Quay trở về Hoa Kỳ qua ngã Đông Nam ÁĐịa Trung Hải, Trathen hoạt động cùng Hạm đội Đại Tây Dương cho đến tháng 1 năm 1955, khi nó được điều động trở lại Hạm đội Thái Bình Dương, và lại được bố trí sang Tây Thái Bình Dương. Nó rời Long Beach, California vào ngày 21 tháng 4, bắt đầu một chuỗi các lượt bố trí sang Viễn Đông vốn kéo dài cho đến năm 1964, xen kẻ với các hoạt động tại chỗ dọc theo vùng bờ Tây. Con tàu đã viếng thăm các cảng Cao Hùng, Đài Loan; Hong Kong; Sasebo và Yokosuka, Nhật Bản; cũng như Trân Châu Cảng, Guam, Midwayvịnh Subic, Philippines. Trong giai đoạn này, nó tham gia thực hành chống tàu ngầm, phòng không, phục vụ như tàu canh phòng máy bay khi hoạt động cùng các lực lượng tàu sân bay nhanh, tham gia tuần tra tại eo biển Đài Loan để bảo vệ hòn đảo này.

Sự kiện vịnh Bắc Bộ xảy ra vào đầu tháng 8 năm 1964 khi Trathen đang hiện diện tại cảng Cao Hùng trong lượt hoạt động sau cùng tại Tây Thái Bình Dương. Nó lên đường không lâu sau đó, và hoạt động liên tục ngoài khơi cho đến hết tháng 8 ngoại trừ những đợt tiếp liệu tại Cao Hùng. Sau khi được thay phiên, nó lên đường đi Hong Kong và hoạt động như tàu trạm tại đây cho đến khi quay trở lại Biển Đông, hỗ trợ các hoạt động hải quân dọc theo bờ biển Nam Việt Nam. Con tàu rời khu vực Tây Thái Bình Dương vào ngày 8 tháng 10, đi ngang qua Guam và Midway để quay trở về vùng bờ Tây.

Sau khi về đến Long Beach vào ngày 28 tháng 10, Trathen hoạt động thường lệ cùng tàu sân bay dọc theo vùng bờ Tây. Nó trình diện cùng Đội San Diego, Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương vào ngày 12 tháng 2 năm 1965, và bắt đầu được đại tu chuẩn bị ngừng hoạt động tại xưởng tàu Todd Pacific Shipyards, San Pedro, California. Con tàu được kéo đến San Diego vào ngày 15 tháng 3, và được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 11 tháng 5 năm 1965. Một đợt khảo sát vào tháng 6 năm 1972 xác định chi phí hiện đại hóa con tàu sẽ vượt quá giá trị còn lại, nên nó bị rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 11 năm 1972.

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Trathen được tặng thưởng tám Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, và thêm hai Ngôi sao Chiến trận trong Chiến tranh Triều Tiên.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]