Vóc dáng

Vóc dáng (Body shape) hay dáng người là cách cơ thể của một người phân bố trọng lượng và cấu trúc xương. Hình dạng hoặc vóc dáng tổng thể của một người chủ yếu được xác định bởi cấu trúc xương, cũng như sự phân bố của cơ và mô mỡ[1]. Vóc dáng không phải là cân nặng, mà là hình dạng cơ bản của cơ thể, được xác định bởi tỷ lệ giữa vai, ngực, eo, và hông. Cấu trúc xương chỉ phát triển và thay đổi cho đến khi con người trưởng thành và về cơ bản vẫn giữ nguyên trong suốt quãng đời còn lại. Dáng người của mỗi cá nhân thường được xác định bởi ba yếu tố chính là cấu trúc xương gồm chiều rộng của vai, hông và khung xương. Sự phân bố chất béo ở nơi mà cơ thể có xu hướng tích trữ mỡ nhiều nhất. Khối lượng cơ gồm tỷ lệ và vị trí của các khối cơ trên cơ thể. Việc phân loại dáng người giúp các nhà thiết kế thời trang, phong cách (stylist), và cá nhân dễ dàng hơn trong việc lựa chọn trang phục phù hợp để tôn vinh những ưu điểm của cơ thể.
Đại cương
[sửa | sửa mã nguồn]Quá trình phát triển ở con người thường hoàn tất ở độ tuổi từ 13 đến 18, khi đó các đĩa sụn của xương dài sẽ khép lại, không cho phép phát triển thêm nữa[2]. Nhiều khía cạnh của hình dáng cơ thể thay đổi tùy theo giới tính, và vóc dáng phụ nữ đặc biệt có một lịch sử văn hóa phức tạp. Khoa học đo lường và đánh giá hình dáng cơ thể được gọi là vóc dáng phụ nữ. Ở tuổi dậy thì, quá trình phân hóa giữa cơ thể nam và nữ diễn ra nhằm mục đích sinh sản. Ở người trưởng thành, khối lượng cơ có thể thay đổi do tập thể dục, và sự phân bố mỡ có thể thay đổi do sự dao động của hormone sinh dục. Các gen di truyền đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển hình dáng cơ thể. Do tác động của testosterone, nam giới có thể phát triển các đặc điểm xương mặt trong giai đoạn dậy thì như xương trán nhô ra nhiều hơn (xương nằm giữa trán, từ khoảng giữa lông mày sang giữa lông mày bên kia), xương mũi lớn hơn[3], hàm dày hơn, tỷ lệ chiều rộng khuôn mặt lớn so với chiều dài khuôn mặt[4], cằm nhô ra nhiều hơn. Tuy nhiên, một số nghiên cứu lại phản bác điều này và testosterone làm giảm sự nổi bật của xương gò má ở nam giới[5].
Vì phụ nữ có lượng testosterone chỉ bằng khoảng 1/15 (6,67%) so với nam giới[6], các đặc điểm phụ thuộc vào testosterone không phát triển ở cùng mức độ, và do đó khuôn mặt của phụ nữ thường ít thay đổi hơn so với trẻ em tiền dậy thì. Sự mở rộng của xương hông diễn ra như một phần của quá trình dậy thì ở nữ giới[7] và estrogen (hormone sinh dục chiếm ưu thế ở phụ nữ) khiến xương chậu mở rộng như một phần của sự phân hóa giới tính. Do đó, phụ nữ thường có hông rộng hơn, cho phép sinh con. Vì xương chậu của phụ nữ phẳng hơn, tròn hơn và lớn hơn về mặt tỷ lệ, nên đầu của thai nhi có thể lọt qua trong khi sinh nở. Xương cùng ở con cái ngắn hơn và rộng hơn, và cũng hướng nhiều hơn về phía sau[8] Điều này đôi khi ảnh hưởng đến phong cách đi bộ của giới nữ, dẫn đến việc lắc hông[9]. Chi trên của nữ giới có góc hướng ra ngoài (góc mang) ngang khuỷu tay để phù hợp với khung xương chậu rộng hơn. Sau tuổi dậy thì, hông thường rộng hơn vai. Tuy nhiên, không phải tất cả phụ nữ đều tuân theo khuôn mẫu khuôn mẫu này về đặc điểm giới tính thứ cấp[10]. Nam giới và nữ giới nhìn chung có cùng hormone, nhưng nồng độ trong máu và độ nhạy cảm tại vị trí khác nhau giữa nam và nữ. Nam giới chủ yếu sản xuất testosterone với một lượng nhỏ estrogen và progesterone, trong khi phụ nữ chủ yếu sản xuất estrogen và progesterone với một lượng nhỏ testosterone[11].
Estrogen khiến chất béo được lưu trữ ở mông, đùi và hông ở phụ nữ[12]. Khi phụ nữ đến tuổi mãn kinh và lượng estrogen do buồng trứng sản xuất giảm, mỡ sẽ dồn từ mông, hông và đùi đến eo[13]. Sau đó, mỡ được tích ở bụng, tương tự như ở nam giới[14]. Do đó, phụ nữ thường có vòng eo tương đối hẹp và mông lớn, cùng với cấu trúc hông rộng khiến cho phần hông rộng hơn và tỷ lệ eo-hông thấp hơn so với nam giới[15]. Estrogen làm tăng lượng mỡ dự trữ trong cơ thể, dẫn đến lượng mỡ dự trữ trong cơ thể phụ nữ tăng lên[16]. Phụ nữ có bầu vú do tuyến vú có chức năng, phát triển ở tuổi dậy thì dưới ảnh hưởng của nhiều loại hormone như thyroxine, cortisol, progesterone, estrogen, insulin, prolactin và hormone tăng trưởng của con người[17]. Tuyến vú không chứa mô cơ, hình dạng bầu ngực phụ nữ bị ảnh hưởng bởi tuổi tác, yếu tố di truyền và cân nặng. Ngực phụ nữ có xu hướng to hơn sau thời kỳ mãn kinh, do sự gia tăng các mô mỡ do nồng độ estrogen giảm. Sự mất độ đàn hồi của mô liên kết liên quan đến mãn kinh cũng gây ra tình trạng chảy xệ vú[18]. Theo Tổ chức Tim mạch và Đột quỵ Canada (Heart and Stroke Foundation of Canada) thì những người có vòng eo lớn (hình quả táo) thường dẫn đến bụng phệ có nguy cơ sức khỏe cao hơn những người có trọng lượng dư thừa ở hông và đùi (hình quả lê). Những người có thân hình hình quả táo và thừa cân có nguy cơ mắc huyết áp cao, tiểu đường tuýp 2 và cholesterol cao cao hơn[19].
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]

- ^ Singh D (2007). "An Evolutionary Theory of Female Physical Attractiveness". Psi Chi. The National Honor Society in Psychology. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2011.
- ^ "Lateral Synovial Joint Loading Explained In Simple English". ngày 19 tháng 8 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
- ^ Perrett DI, Lee KJ, Penton-Voak I, Rowland D, Yoshikawa S, Burt DM, và đồng nghiệp (tháng 8 năm 1998). "Effects of sexual dimorphism on facial attractiveness". Nature. 394 (6696): 884–887. Bibcode:1998Natur.394..884P. doi:10.1038/29772. PMID 9732869. S2CID 204999982.
- ^ Holden C (ngày 20 tháng 8 năm 2008). "The Face of Aggression". Science. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2021.
- ^ Hodges-Simeon, Carolyn R.; Sobraske, Katherine N. Hanson; Samore, Theodore (ngày 14 tháng 4 năm 2016). "Facial Width-To-Height Ratio (fWHR) Is Not Associated with Adolescent Testosterone Levels". PLOS ONE (bằng tiếng Anh). 11 (4): e0153083. Bibcode:2016PLoSO..1153083H. doi:10.1371/journal.pone.0153083. ISSN 1932-6203. PMC 4831733. PMID 27078636.
"Specifically, facial width/lower face height gets smaller (i.e., the lower face grows more than the width of the face), cheekbone prominence gets smaller (i.e., the width of the face at the mouth—a measure of relative jaw width—grows more than the width of the cheekbones), and lower face height/full face height gets larger (i.e., facial growth is focused in the lower face) as male adolescents develop. These results are consistent with the craniofacial literature that documents pronounced growth in the male mandible under the influence of exogenous T [51] and during puberty [83–85]. Similarly, the association between T and these mandible-inclusive facial ratios accords with Lefevre et al. [16], who found significant sexual dimorphism in these three ratios, but no adult sex difference in fWHR." See Table 1 and Figure 2 for cheekbone relation to testosterone levels.
- ^ Handelsman, David J; Hirschberg, Angelica L; Bermon, Stephane (tháng 10 năm 2018). "Circulating Testosterone as the Hormonal Basis of Sex Differences in Athletic Performance". Endocrine Reviews. 39 (5): 803–829. doi:10.1210/er.2018-00020. PMC 6391653. PMID 30010735.
- ^ "Reproductive Anatomy and Physiology". The Harriet and Robert Heilbrunn Department of Population and Family Health. Columbia University Mailman School of Public Health. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2011.
Secondary sexual characteristics occur as part of the pubertal process
- ^ Saukko P, Knight B (2004). Knight's Forensic Pathology (ấn bản thứ 3). Edward Arnold Ltd. ISBN 0-340-76044-3.
- ^ "Clues To Mysteries Of Physical Attractiveness Revealed". ScienceDaily. ngày 24 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2011.
- ^ Haeberle EJ. "The secondary sexual characteristics". The Sex Atlas. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2011.
Hips grow wider than their shoulders
- ^ Lauretta, R; Sansone, M; Sansone, A (2018). "Gender in Endocrine Diseases: Role of Sex Gonadal Hormones". International Journal of Endocrinology. 2018: 4847376. doi:10.1155/2018/4847376. PMC 6215564. PMID 30420884.
Generally, females and males have the same hormones (i.e., estrogens, progesterone, and testosterone), but their production sites, their blood concentrations, and their interactions with different organs, systems, and apparatus are different [29]. Males produce predominantly testosterone from the testes in a relatively constant daily amount according to a circadian profile. Small amounts of estrogens and progesterone are produced by the testes and the adrenal glands or are produced in the peripheral tissues, such as adipose tissue or liver, by the conversion of other precursor hormones [30]. In contrast, females mainly produce estrogens and progesterone from the ovaries in a cyclical pattern, while a small amount of testosterone (T) is produced by the ovaries and adrenal glands.
- ^ Peeke PM. "Waistline Worries: Turning Apples Back Into Pears". National Women's Health Resource Center. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2009.
- ^ "Women's Health". Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2015.
- ^ "Abdominal fat and what to do about it". Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2007.
- ^ "Why men store fat in bellies, women on hips". The Times of India. ngày 3 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2011.
- ^ "Sex hormone making women fat?". The Times of India. ngày 7 tháng 4 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2011.
- ^ Fritz, Marc A.; Speroff, Leon (ngày 28 tháng 3 năm 2012). Clinical Gynecologic Endocrinology and Infertility (bằng tiếng Anh). Lippincott Williams & Wilkins. tr. 624. ISBN 978-1-4511-4847-3.
- ^ Sabel, Michael S. (ngày 23 tháng 4 năm 2009). Essentials of Breast Surgery: A Volume in the Surgical Foundations Series E-Book (bằng tiếng Anh). Elsevier Health Sciences. tr. 16. ISBN 978-0-323-07464-3.
- ^ "Assess your weight". Heart and Stroke Foundation of Canada. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2011.