Bước tới nội dung

Viện Đại học Sophia

35°41′3″B 139°43′55″Đ / 35,68417°B 139,73194°Đ / 35.68417; 139.73194
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Viện Đại học Sophia
上智大学
Khẩu hiệuLux Veritatis (Latin)
真理の光 (tiếng Nhật)
Shinri no Hikari (Rōmaji)
Khẩu hiệu trong Tiếng Anh
Light of Truth
Loại hìnhViện đại học nghiên cứu tư thục
Thành lập1913; 112 năm trước (1913)
Sáng lậpDòng Tên
Tôn giáo
Giáo hội Công giáo (Dòng Tên)
Liên kết học tập
AALAU, IAU, IFCU
Chưởng ấnGS TS Sali Augustine S.J.[1]
Viện trưởngYoshiaki Terumichi[2]
Giảng viên
1.509 (2022/23)
Nhân viên quản lý
293
Sinh viên13.437 (2022/23)
Sinh viên đại học12.080 (2022/23)
Sinh viên sau đại học1.357 (2022/23)
Vị trí,
Nhật Bản

35°41′3″B 139°43′55″Đ / 35,68417°B 139,73194°Đ / 35.68417; 139.73194
Khuôn viênĐô thị, 4,5 ha
Hiệu caSophia
Màu     Hạt dẻ
Biệt danhSophians (tiếng Anh)
Linh vậtSophian-kun (ソフィアン君, chú đại bàng màu hạt dẻ)
Websitewww.sophia.ac.jp/eng/ (tiếng Anh)

Viện Đại học Sophia (Nhật: 上智大学 Hepburn: Jōchi Daigaku?, tiếng Latinh: Universitas Sedis Sapientiae) là một viện đại học nghiên cứu tư thục do dòng Tên điều hành, có trụ sở tại thành phố Tōkyō, Nhật Bản. Viện được dòng Tên thành lập vào năm 1913 và được Nhà nước công nhận là viện đại học vào năm 1928, đưa Viện trở thành viện đại học Công giáo đầu tiên của Nhật Bản.[3] Viện Đại học Sophia có 12.080 sinh viên hệ đại học và 1.357 sinh viên hệ sau đại học. Viện có 9 khoa hệ đại học và 10 trường sau đại học, với hơn 13.900 sinh viên. [4][5][6]

Viện Đại học Sophia là một cơ sở giáo dục đại học có tính toàn cầu hóa cao: Viện có đội ngũ sinh viên quốc tế đến từ 77 quốc gia và có thỏa thuận trao đổi sinh viên với 400 viện đại học thuộc 81 quốc gia.[7] Viện thu hút được nhiều sinh viên trên khắp nước Nhật Bản cũng như từ nước ngoài. Tính đến năm 2022, số lượng sinh viên nước ngoài chiếm khoảng 9% trên tổng số sinh viên của Viện.[8]

Những cựu sinh viên nổi bật của Viện Đại học Sophia có thể kể đến như Nguyên Thủ tướng Nhật Bản Hosokawa Morihiro, một số dân biểu Chúng Nghị viện Nhật Bản, một số chính khách nước ngoài (trong đó có Carlos Holmes Trujillo, Mukhriz MahathirLệ Lân Tự), cùng nhiều diễn viên và nhạc sĩ trong ngành điện ảnhâm nhạc Nhật Bản.

Tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]

Tên gọi của Viện đại học Sophia bắt nguồn từ những bức thư mà Linh mục James Rockliff S.J. cùng Linh mục Hermann Hoffmann S.J. (2 trong số 3 vị sáng lập Viện) trao đổi với nhau. Thuật ngữ tiếng Nhật 上智 (Jōchi, n.đ.'trí tuệ trổi vượt') có nghĩa tương tự như từ tiếng Latinh sapientia (n.đ.'khôn ngoan'). Theo truyền thống Công giáo, thuật ngữ sapientia ám chỉ tới một tước hiệu tôn kính dành cho Đức Mẹ Maria, đó là "Ngai tòa Đấng khôn ngoan".[9][10]

Khi Tu sĩ Joseph Eylenbosch S.J. bắt đầu dạy lớp tiếng Hy Lạp tại Viện vào năm 1924, ông lại cho rằng thuật ngữ jōchi là phép dịch tương đương từ tiếng Hy Lạp σοφία (sofía). Một thời gian sau, các sinh viên của Viện đã làm đơn kiến nghị các lãnh đạo đặt tên ngôi trường mình là "Viện Đại học Sophia".

Ban đầu, Linh mục Hermann Hoffmann, khi đó đương là Chưởng ấn Viện Đại học, đã phản đối kiến nghị này. Tuy vậy, ông sớm chấp thuận ý tưởng trên và làm một tờ đơn đề nghị để trình lên cho Tòa Thánh phê chuẩn.

Monumenta Nipponica, tập san học thuật có bình duyệt với các bài báo được viết bằng tiếng Anh, xuất bản lần đầu vào năm 1938, tự cho là do Viện Đại học Sophia phát hành. Kể từ đó, thuật ngữ "Sophia" với tư cách là tên gọi của Viện được thừa nhận cách vững chắc tại Nhật Bản cũng như trên trường quốc tế.[11]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 1549, Thánh Phanxicô Xaviê, người đồng sáng lập dòng Tên, đặt chân đến Nhật Bản và bắt đầu công cuộc truyền giáo. Trong các thư tín mà ông gửi cho một số tu sĩ dòng Tên, ông đã bày tỏ niềm mong ước sớm có một viện đại học được thành lập tại Nhật Bản.[12][13]

Trong thời kỳ Kirishitan, Giáo hội Công giáo tại Nhật Bản đã thiết lập và điều hành nhiều trường học (collegios) cũng như chủng viện (seminarios), đóng vai trò làm cầu nối giữa thế giới Đông phươngthế giới Tây phương.

Cố Hồng y William Henry O'Connell từng được bổ nhiệm làm đặc sứ Vatican tại Nhật Bản.

Phải mất hơn 400 năm sau khi Thánh Phanxicô Xaviê đặt chân đến nước Nhật Bản thì viện đại học đầu tiên của Nhật Bản mới nhen nhóm ra đời. Vào năm 1903, 3 linh mục người châu Âu thuộc dòng Tên đã viễn du đến Nhật Bản để tiếp nối công việc truyền giáo cũng như chăm lo cho việc thành lập Viện Đại học Sophia. Trong số 3 vị ấy có linh mục người Đức Joseph Dahlmann S.J. Ông đã đi từ Ấn Độ đến Nhật Bản, và tại đây ông đã được nghe những nguyện vọng của các tín hữu Công giáo, rằng họ rất mong muốn được xây một viện đại học để làm chỗ dựa về mặt văn hóa cũng như tâm linh cho các hoạt động truyền giáo của Giáo hội Công giáo tại Nhật Bản.

Linh mục Dahlmann tiếp nhận nguyện vọng này và gửi một bức thư đề nghị cho Giáo hoàng Pius X tại Roma. Đến năm 1905, trong buổi tiếp kiến Linh mục Dahlmann, Giáo hoàng Pius X hứa giao cho dòng Tên nhiệm vụ thành lập và điều hành một viện đại học Công giáo tại Nhật Bản. Trong hồi ký được viết bằng tiếng Latin của mình, Linh mục Dahlmann đã ghi lại lời mà Giáo hoàng Pius nói với mình, đó là "Habebitis collegium in Japonica, magnam universitatem" (n.đ.'Các con sẽ có một trường học, một viện đại học vĩ đại tại Nhật Bản').

Cũng trong năm đó, Giám mục William Henry O'Connell – Giám mục Giáo phận Portland, tiểu bang Maine – được Giáo hoàng Pius X cử làm đặc sứ Thành Vatican để diện kiến Thiên hoàng Meiji. Bên cạnh đó, Giám mục O'Connell còn được giao nhiệm vụ khảo sát tình hình tại Nhật Bản. Sau khi được phép diện kiến Thiên hoàng Meiji, ông đã tìm hiểu rõ ràng những đường hướng trong chính sách giáo dục của Bộ Giáo dục Nhật Bản và báo cáo với các quan chức Tòa Thánh về việc thành lập một trường đại học Công giáo tại Nhật Bản.

Tại Tổng hội thứ 25 của Dòng Tên, nhóm họp vào tháng 9 năm 1906 tại Roma, Giáo hoàng Pius X đã ban hành một bản tuyên bố viết tay và gửi đến dòng Tên, theo đó ông cho phép Dòng thiết lập một viện đại học Công giáo tại Nhật Bản. Đến sau, các đại biểu tham gia Tổng hội đều nhất trí ủng hộ lệnh truyền của Giáo hoàng và sớm thực hiện những bước đi trước hết để chuẩn bị thiết lập một viện đại học tại phương Đông.[14]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ "Announcement of Change of Chancellor of Sophia School Corporation".
  2. ^ "Professor Yoshiaki Terumichi appointed as Next President of Sophia University".
  3. ^ "上智大学の沿革|上智大学". www.sophia.ac.jp (bằng tiếng Nhật). 1549. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  4. ^ "Sophia University Graduate Students 「上智大学大学院学生数」" (PDF). Sophia University. 2018. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2020.
  5. ^ "Sophia University Undergraduate Students「上智大学学部学生数」" (PDF). Sophia University. 2018. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2020.
  6. ^ "History of Sophia University: Arrival of St. Francis Xavier-1967". Sophia University. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2020.
  7. ^ "Global Engagement | Sophia University". www.sophia.ac.jp (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  8. ^ "数字で見る上智大学|上智大学". www.sophia.ac.jp (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  9. ^ "Sophia University Japanese study guide" (PDF). University of Technology Sydney. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2023.
  10. ^ "Seat of Wisdom, Meaning of : University of Dayton, Ohio". University of Dayton. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2023.
  11. ^ "Origins of the school name; the school emblem and school flag; the school colors and school song, No. 41" (PDF). Sophia University. Chiyoda, Tokyo, Japan. tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2020.
  12. ^ "Arrival of St. Francis Xavier--1967". Sophia University. Chiyoda, Tokyo, Japan. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2020.
  13. ^ "Saint Francis Xavier and the Roots of Christianity in Japan". Nippon.com. Minato, Tokyo, Japan: Nippon Communications Foundation. ngày 27 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2020.
  14. ^ "The Society of Jesus and the founding of Sophia University". Sophia University. Chiyoda, Tokyo, Japan. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2020.