Công đảng (Hà Lan)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Công đảng
Partij van de Arbeid
Viết tắtPvdA
Lãnh tụLodewijk Asscher
Chủ tịch ĐảngNelleke Vedelaar
Lãnh đạo Thượng việnEsther-Mirjam Sent
Lãnh đạo Hạ việnLodewijk Asscher
Lãnh đạo Nghị viện châu ÂuPaul Tang
Thành lập9 tháng 2 năm 1946
Sáp nhậpSDAP, VDB, CDU
Trụ sở chínhPartijbureau PvdA
Herengracht 54 Amsterdam
Tổ chức thanh niênYoung Socialists in the PvdA
Think tankWiardi Beckman Foundation
Thành viên  (2017)46.162[1]
Ý thức hệTự do xã hội[2]
Khuynh hướngTrung tả[3][4]
Thuộc châu ÂuParty of European Socialists
Thuộc tổ chức quốc tếProgressive Alliance
Nhóm Nghị viện châu ÂuProgressive Alliance of Socialists and Democrats
Màu sắc chính thức     Red
Senate
8 / 75
House of Representatives
9 / 150
King's Commissioners
2 / 12
States-Provincial
64 / 570
European Parliament
3 / 26
Trang webhttp://www.pvda.nl/

Công đảng (tiếng Hà Lan: Partij van de Arbeid; phát âm tiếng Hà Lan[pɑrtɛi vɑn də 'ʔɑrbɛit]: [pɑrtɛi vɑn də 'ʔɑrbɛit], rút ​​ngắn PvdA [peːveːdeː'ʔaː]) là một đảng chính trị xã hội dân chủ ở Hà Lan[5]. Kể từ ngày 5 tháng 11 năm 2012, PvdA đã điều phối liên minh với Đảng Nhân dân vì Dân chủ và Tự do (VVD) trong nội các Rutte thứ hai.

Lịch sử Đảng[sửa | sửa mã nguồn]

1945-1965[sửa | sửa mã nguồn]

Công đảng (PvdA) được thành lập vào ngày 9 tháng 2 năm 1946, thông qua sự sáp nhập của ba bên: Đảng Lao động Xã hội Dân sự (SDAP), Hiệp hội Dân chủ Tự do Tư tưởng Tự do-Xanh (VDB) và Liên đoàn Dân chủ Ki tô giáo Tin Lành (Progressive-Protestant Christian Democratic Union) CDU). [6] Họ đã tham gia cùng với các cá nhân từ nhóm kháng chiến Công giáo Christofoor và đảng Liên minh Lịch sử Kitô giáo CHU và Đảng chống Cách mạng (ARP).

Willem Schermerhorn, đồng sáng lập, Thủ tướng từ năm 1945 cho đến năm 1946.

Willem Drees, đồng sáng lập và lãnh đạo từ năm 1946 đến năm 1958, Thủ tướng từ năm 1948 đến năm 1958. Những người sáng lập PvdA muốn tạo ra một bữa tiệc lớn, phá vỡ truyền thống lịch sử của Pillarisation. Mong muốn đi đến một hệ thống chính trị mới được gọi là Doorbraak. Đảng kết hợp xã hội với các nhà tự do dân chủ tự do và các Kitô hữu tiến bộ. Tuy nhiên, đảng đã không thể phá vỡ Pillarisation. Thay vào đó, đảng mới lại làm mới mối quan hệ gần gũi mà SDAP đã làm với các tổ chức xã hội chủ nghĩa khác (xem các tổ chức liên kết). Năm 1948, một số thành viên tự do do cựu lãnh đạo VDB Pieter Oud dẫn đầu đã rời khỏi PvdA bởi vì họ không hài lòng với khóa học xã hội chủ nghĩa của PvdA. Cùng với Đảng Tự do, họ thành lập Đảng Nhân dân vì Dân chủ và Tự do (VVD), một đảng bảo thủ-tự do.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ PvdA ledentallen per jaar (1946-) Lưu trữ 2016-11-25 tại Wayback Machine, University of Groningen, 2017. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2017.
  2. ^ Wolfram Nordsieck. “Parties and Elections in Europe”. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2015.
  3. ^ Josep M. Colomer (ngày 24 tháng 7 năm 2008). Comparative European Politics. Taylor & Francis. tr. 221f. ISBN 978-0-203-94609-1. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2013.
  4. ^ Score 4.0/10 in 2003 Chapel Hill expert survey, see Hooghe et al. (2003) Chapel Hill Survey Lưu trữ 2008-07-25 tại Wayback Machine
  5. ^ *Andeweg, R. B.; Galen A. Irwin (2002). Governance and politics of the Netherlands. Basingstoke: Palgrave Macmillan. tr. 51. ISBN 0-333-96157-9.