Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bành Hồ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Không có tóm lược sửa đổi
n Cnbhtaiwan đã đổi Bành Hồ (huyện) thành Bành Hồ qua đổi hướng
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 11:47, ngày 24 tháng 2 năm 2013

Tập tin:Penghu County emblem.png
Huyện Bành Hồ
澎湖縣
Abbreviation(s): Bành Hồ (澎湖)
Huyện lỵ Mã Công
Vùng Eo biển Đài Loan
Huyện trưởng
Thành phố 1
Trấn 5
Diện tích
- Tổng 141052 km²
(18/25)
- % nước 0 %
Dân số
- Tổng 98.927 (tháng 1 năm 2013)
(21/25)
- Mật độ 779,79/km²
Biểu tượng
- Hoa biểu tượng huyện Lại cúc (Gaillardia pulchella)
- Cây biểu tượng huyện Gừa (Ficus microcarpa)
- Chim biểu tượng huyện Sơn ca (Alauda gulgula)
website chính thức www.penghu.gov.tw

Bành Hồ (chữ Hán: 澎湖; bính âm: Pénghú) là một quần đảo nằm ở phía tây đảo Đài Loan thuộc eo biển Đài Loan. Quần đảo này bao gồm 90 đảo nhỏ với tổng diện tích 141 km². Cả quần đảo hình thành nên huyện Bành Hồ, thuộc Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), và là vùng đảo xa lớn nhất của Trung Hoa Dân Quốc.

Tên gọi

Trong thế kỷ 16, khi người Bồ Đào Nha tiến đến phương Đông, phát hiện thấy vùng biển Bành Hồ có ngư sản phong phú, trên các đảo có rất nhiều ngư dân trú, vì thế đã gọi Bành Hồ là Pescadores (ngư ông). Bành Hồ còn có các tên cổ là Đảo Di (島夷), Phương Hồ (方壺), Tây Doanh (西瀛), Đản Châu (亶州), Bình Hồ (平湖).[1]

Lịch sử

Việc tìm thấy đồ gốm văn thừng màu đỏ có chất lượng tốt ở Bành Hồ đã chỉ ra rằng người dân từ Tây Nam Đài Loan đã đến quần đảo này từ khoảng 5.000 năm trước, song họ không định cư lâu dài.[2] Người Hán từ nam bộ Phúc Kiến bắt đầu thành lập các làng chài trên quần đảo từ thế kỷ 9 và 10,[2] triều đình Nam Tống và Nguyên đã cho đóng quân một cách không liên tục tại quần đảo từ khoảng năm 1170.[3] Tư liệu văn hiến có đề cập đến Bành Hồ sớm nhất của Trung Quốc xuất hiện vào thời Nam Tống, trong "Công quý tập" (攻媿集)- quyển 88 của Lâu Thược (樓鑰) có viết rằng: tháng 4 năm Càn Đạo thứ 7 (1171), khởi đầu từ Tuyền Châu, đến quận ... quận thực Lâm Hải, giữa có bãi cát vài vạn mẫu, hiệu Bình Hồ, trong văn bản cũng mô tả Uông Đại Du (汪大猷) bảo hộ người Hán tại Bình Hồ chống lại sự cướp bóc của người Bì Xá Da (thổ dân Đài Loan), cho xây nhà 200 gian, khiển tướng trú thủ.[4] Trong tiếng Mân Nam, Bình Hồ và Bành Hồ phát âm gần như nhau, giới học giả phổ biến đồng thuận rằng Bình Hồ là Bành Hồ. Đến thời Nguyên, với việc di dân ngày càng tăng lên, triều đình đã cho thiết lập tuần kiểm ti (巡檢司) tại Bành Hồ. Quần đảo cũng được mô tả trong một số chi tiết của sách Đảo di chí lược (島夷誌略) năm 1349 do thương nhân Uông Đại Uyên (汪大渊) viết.

Trong thế kỷ 15, nhà Minh đã ra hạ lệnh cho người Hán phải tản cư khỏi quần đảo, một phần trong sách lược hải cấm của họ. Trong những năm Minh Thành TổMinh Tuyên Tông tại vị, Trịnh Hòa đã tiến hành cuộc thám hiểm tây dương, và trong Trịnh Hòa hàng hải đồ có xuất hiện Bình Hồ tự (平湖嶼), tức là quần đảo Bành Hồ. Những hạn chế của nhà Minh đã bị bãi bỏ vào cuối thế kỷ 16, các làng chài được tái lập trên quần đảo, và đến khi người Bồ Đào Nha đến, họ đã đặt tên cho quần đảo là "Pescador" (ngư ông).[3] Triều Minh đã có binh lính hiện diện tại Bành Hồ vào năm 1603, đẩy lui một nỗ lực của Hà Lan nhằm thiết lập một cứ điểm thương mại trên quần đảo trong năm.[5]

Năm 1661, Trịnh Thành Công đã xuất binh từ Kim Môn, trước sau chiếm lĩnh Bành Hồ và khu vực do Hà Lan thống trị trên đảo Đài Loan, sau đó thiết lập An Phủ ti tại Bành Hồ. Năm 1683, thủy sư đề đốc nhà ThanhThi Lang tại hải chiến Bành Hồ đã đại phá hạm đội họ Trịnh, đánh chiếm Bành Hồ, tướng họ Trịnh là Lưu Quốc Hiên (劉國軒) phải rút chạy về Đài Loan, chính quyền họ Trịnh sau đó đầu hàng quân Thanh. Sau đó, triều Thanh đặt Bành Hồ dưới quyền cai quản của huyện Đài Loan ở nam bộ Đài Loan hiện nay. Năm 1767, thông phán Hồ Kiến Vĩ (胡建偉) hoàn thành việc biên soạn "Bành Hồ kỉ lược" (澎湖紀略), trở thành cuốn sách ghi chép hoàn chỉnh đầu tiên về Bành Hồ. Năm 1778, một tháp hải đăng được xây trên Tây Tự, hoàn thành vào năm sau, khởi đầu cho việc xây các hải đăng ở khu vực Đài Loan.

Chiếm hạm Pháp oanh tạc các vị trí của quân Thanh quanh Mã Công, 29 tháng 3 năm 1885

Tháng 3 năm 1885, quần đảo Bành Hồ bị người Pháp đánh chiếm trong những tuần cuối cùng của Chiến tranh Thanh-Pháp, và họ đã chỉ rút đi bốn tháng sau đó. Chiến dịch Bành Hồ là chiến dịch cuối cùng của đô đốc Amédée Courbet, ông đã giành được các thắng lợi trong các trận hải chiến và trở thành một anh hùng dân tộc tại Pháp. Courbet nằm trong số các chỉ huy và thủy thủ Pháp đã chết vì bệnh tả trong thời gian Pháp chiếm đóng quần đảo Bành Hồ. Ông qua đời trên tàu đô đốc Bayard của mình tại cảng Mã Công vào ngày 11 tháng 6 năm 1885.[6]. Năm 1887, Hải Đàn trấn tổng binh Ngô Hoành Lạc (吳宏洛) nhậm chức Bành Hồ thủy sư tổng binh, giám sát xây dựng thành Bành Hồ.

Trong chiến tranh Giáp Ngọ giữa Trung Quốc và Nhật Bản, quân Nhật đã tiến hành chiến dịch Bành Hồ trong thời gian 23–26 tháng 3 năm 1895. Quân Nhật giành được chiến thắng với tổn thất tối thiểu, 5000 lính Thanh hầu hết đều đầu hàng và được người Nhật cho hồi hương về Trung Quốc đại lục. Tuy nhiên, một đợt bùng phát dịch tả sau khi họ chiếm đóng quần đảo đã khiến hơn 1.500 lính Nhật thiệt mạng trong vòng vài ngày.[7][8] Với việc chiếm đóng Bành Hồ, người Nhật có thể ngăn cản việc có thêm quân Thanh được đưa đến Đài Loan, thuyết phục các nhà đàm Đại Thanh tại Shimonoseki rằng Nhật Bản đã quyết tâm để thôn tính Đài Loan. Với Điều ước Mã Quan ký kết vào tháng 4 năm 1895, triều đình Thanh đã nhượng Bành Hồ cho Nhật Bản. Tuy vậy, người Nhật Bản cho rằng họ có thể sẽ gặp phải kháng cự khi cố gắng chiếm đóng Đài Loan, và việc chiếm được Bành Hồ đã đảm bảo thành công của chiến dịch xâm lược Đài Loan của người Nhật vào sau đó.[9] Sau đó, người Nhật thành lập "Bành Hồ (Hoko) đảo thính" tại quần đảo Bành Hồ, rồi đổi thành "Bành Hồ thính", trực thuộc Đài Loan tổng đốc phủ. Năm 1920, Bành Hồ thính được đổi thành Bành Hồ quận thuộc Cao Hùng (Takao) châu, đến năm 1926 thì Bành Hồ quận đổi lại thành Bành Hồ thính, trực thuộc trực tiếp Đài Loan tổng đốc phủ. Năm 1923, hoàng thái tử Hirohito khi đến Đài Loan đã thị sát Bành Hồ. Trong chiến tranh Trung-Nhật, Mã Công (Mako) cảnh bị phủ là một căn cứ chính của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và là một điểm thượng tải trong cuộc xâm lược Philippines của Nhật.

Tham khảo

  1. ^ 國家文化總會,2009,《走讀臺灣:澎湖縣》,頁10,台北市。網路版:走讀臺灣-澎湖縣,2010年7月21日檢索
  2. ^ a b “Penghu Reclamation Hall”.
  3. ^ a b Wills (2006), tr. 86.
  4. ^ 臧振華,1989,〈地下出土的澎湖古史〉,《澎湖開拓史:西台古堡建堡暨媽宮城建城一百週年學術研討會實錄》,頁63-102,澎湖:澎湖縣立文化中心。
  5. ^ Wills (2006), tr. 87.
  6. ^ Loir (1886), tr. 291–317.
  7. ^ Davidson, J. W. (1903). The Island of Formosa, Past and Present. London. tr. 268.
  8. ^ Takekoshi (1907), tr. 82.
  9. ^ Takekoshi (1907), tr. 80–82.

Xem thêm