Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chùa Ông Bắc”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
'''Chùa Ông Bắc [[Long Xuyên]]''' tức '''[[Quảng Đông Tỉnh Hội quán]]'''<ref>Việc thờ tự trong chùa nhuốm màu sắc [[Đạo Lão]], nên gọi là quán thì đúng hơn</ref> tuy không to lớn, nhưng là một di tích kiến trúc chính thống của người Việt gốc [[Hoa]].
'''Chùa Ông Bắc [[Long Xuyên]]''' tức '''Quảng Đông Tỉnh Hội quán'''<ref>Việc thờ tự trong chùa nhuốm màu sắc [[Đạo Lão]], nên gọi là quán thì đúng hơn</ref> tuy không to lớn, nhưng là một di tích kiến trúc chính thống của người Việt gốc [[Hoa]].
Di tích này nằm trên đường [[Phạm Hồng Thái]], mặt chính hướng ra sông Long Xuyên, cách cầu Duy Tân khoảng 10m, thuộc phường [[Mỹ Long]], T.P Long Xuyên, tỉnh [[An Giang]].
Di tích này nằm trên đường [[Phạm Hồng Thái]], mặt chính hướng ra sông Long Xuyên, cách cầu Duy Tân khoảng 10m, thuộc phường [[Mỹ Long]], T.P Long Xuyên, tỉnh [[An Giang]].

Phiên bản lúc 22:56, ngày 26 tháng 2 năm 2008

Chùa Ông Bắc Long Xuyên tức Quảng Đông Tỉnh Hội quán[1] tuy không to lớn, nhưng là một di tích kiến trúc chính thống của người Việt gốc Hoa. Di tích này nằm trên đường Phạm Hồng Thái, mặt chính hướng ra sông Long Xuyên, cách cầu Duy Tân khoảng 10m, thuộc phường Mỹ Long, T.P Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Lịch sử

Tập tin:ChuaongBac.jpg
Chùa Ông Bắc Long Xuyên

Chùa Ông Bắc Long Xuyên được xây dựng cách đây trên trăm năm, khi vùng đất này còn mang tên Đông Xuyên, sau đó thuộc thôn Mỹ Phước, huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Kiên, tỉnh An Giang thời Nhà Nguyễn [2]

Theo những người cao tuổi và căn cứ vào bia ký kể lai lịch chùa, thì ban đầu chùa khá đơn sơ do những người Hoa từ tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) đến lập nghiệp xây dựng để làm nơi hội họp, sinh hoạt.

Như 2 câu đối tại cổng chính đã thể hiện rõ ý nghĩa này :

“Tác khách tận đồng hương bạt thiệp châu nhai đôn nghĩa khí,
Cư dân hàm lạc nghiệp kinh dinh đồng trụ dụ tài nguyên”

Tạm dịch:

Làm khách xứ người cùng một gốc quê hương lặn lội dến sườn núi đỏ bạt ngàn, càng hun đúc nghĩa khí,
Đến ở vùng đất này đều an cư lạc nghiệp, tài nguyên phong phú, làm ăn giàu có.

Đến năm Giáp Ngọ (1887), ông Quảng Thành Lợi và Hòa Mậu Xương là hai người Hoa giàu có trong vùng, đứng ra vận động đồng hương và người dân tín ngưỡng, đóng góp tiền của, khởi công sửa chữa lần thứ hai.

Kiến trúc

Qua 4 năm xây dựng, đến năm Mậu Tuất (1891) chùa được hoàn thành và trở thành một công trình kiến trúc nghệ thuật đẹp và đáng tiêu biểu của T.P Long Xuyên:

Chùa có diện tích 400m2, kiến trúc theo chữ Quốc (国), Mái nóc chùa lợp ngói đại ống tráng men xanh, trên cạnh nóc chạm khắc hình bát tiên, voi, rồng, phượng, cá.. cùng những bức phù điêu, hoa văn cổ, đẹp mang sắc thái nghệ thuật nhà Nguyễn pha lẫn kiến trúc nghệ thuật Trung Quốc.
Cột gỗ tròn bằng cây căm xe, tường gạch hồ vôi ô dước , nền lát gạch hoa, khung bao cửa chính ra vào được xây dựng bằng những tảng đá xanh được chạm khắc tinh xảo.
Nội thất chùa có cấu trúc cảnh phong thủy, thoáng mát, trên đỉnh cao tứ giác có nhiều bức chạm trổ đẹp, hình tam cấp tượng trưng cho ba cõi: Thiên, địa, nhân.

Nhìn chung, chùa đã thể hiện toàn cảnh một mô hình thu nhỏ của các ngôi nhà quan lại phong kiến Trung Hoa.

Di vật

Trong chùa có 3 khánh, một tủ thờ sơn son thiếp vàng, một chuông đồng, đỉnh đồng… Bên hông chùa còn ba bia đá ghi bằng chữ Hán kể lại lịch sử xây dựng chùa. Người được thờ chính tại chính điện làBắc Đế [3], bên trái thờ Thiên hậu, bên phải thờ Quan Công. Ngoài ra Phật Thích Ca, Địa Tạng bồ tát, Ngọc Hoàng thượng đế … cũng được tôn thờ tại đây.

Tất cả tập họp thành một bản sắc văn hoá của người Hoa, đã hoà nhập lâu đời vào nền văn hoá Việt Nam.

Hàng năm, vào những ngày 3 tháng 3 âm lịch, 22 tháng 3 âm lịch và 21 tháng 6 âm lịch, trong bang hội và nhân dân quanh vùng đến dự lễ rất đông. Chùa đã được công nhận di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia vào tháng 6 năm 1987.

Chú thích

  1. ^ Việc thờ tự trong chùa nhuốm màu sắc Đạo Lão, nên gọi là quán thì đúng hơn
  2. ^ Năm 1832 Minh Mạng đổi Ngũ trấn thành Lục tỉnh làPhiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. An Giang có 2 phủ: Tuy Biên, Tân Thành và 4 huyện: Tây Xuyên, Phong Phú, Đông Xuyên, Vĩnh An. Địa danh Long Xuyên ra đời từ năm 1870, sau khi Pháp đến chiếm thành An Giang trước đó 3 năm. Trước khi Pháp đến tên Long Xuyên được dùng để chỉ xứ Cà Mau hiện nay
  3. ^ Bắc Đế: tức Bắc Du Chơn Võ, hay còn được gọi Bắc Đế Trấn Vũ, một nhân vật khá nổi tiếng trong truyện Tàu. Theo truyền thuyết, ông là một vị Tinh quân từ cõi trời xuống trần để trừ diệt yêu ma, trấn trị phong ba, lũ lụt, giúp đỡ dân lành.

Tham Khảo

  • Tư liệu do chùa Ông Bắc Long Xuyên cung cấp.