Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàng đế La Mã”
n r2.7.2) (Bot: Thêm lt:Romos imperatorius |
|||
Dòng 37: | Dòng 37: | ||
{{Link FA|es}} |
{{Link FA|es}} |
||
[[ang:Rōmānisc Cāsere]] |
|||
[[ar:إمبراطور روماني]] |
|||
[[ast:Emperador romanu]] |
|||
[[id:Kaisar Romawi]] |
|||
[[jv:Kaisar Romawi]] |
|||
[[bcl:Emperador Romano]] |
|||
[[ca:Emperador romà]] |
|||
[[ceb:Emperador sa Roma]] |
|||
[[et:Vana-Rooma keiser]] |
|||
[[en:Roman emperor]] |
|||
[[es:Emperador romano]] |
|||
[[fr:Empereur romain]] |
|||
[[ko:로마 제국의 황제]] |
|||
[[is:Rómarkeisari]] |
|||
[[it:Imperatore romano]] |
|||
[[ka:რომის იმპერატორი]] |
|||
[[la:Imperator Romanus]] |
|||
[[lt:Romos imperatorius]] |
|||
[[mr:रोमन सम्राट]] |
|||
[[ja:ローマ皇帝]] |
|||
[[pt:Imperador romano]] |
|||
[[sk:Rímsky cisár (staroveký Rím)]] |
|||
[[sr:Римски цар]] |
|||
[[fi:Rooman keisari]] |
|||
[[th:จักรพรรดิโรมัน]] |
|||
[[uk:Римський імператор]] |
|||
[[zh:羅馬皇帝]] |
Phiên bản lúc 16:34, ngày 13 tháng 3 năm 2013
Hoàng đế của Đế quốc La Mã | |
---|---|
Vexillum | |
Tập tin:Aug11 01.jpg Augustus | |
Chi tiết | |
Tước hiệu | Hoàng đế(Imperator), Augustus, Caesar, Nguyên thủ(Princeps), Dominus Noster(thay đổi theo thời kỳ |
Quân chủ đầu tiên | Augustus |
Quân chủ cuối cùng | Theodosius I (thời thống nhất), Romulus Augustus (Tây La Mã), Constantine XI (Đông La Mã) |
Thành lập | 27 tr.CN |
Bãi bỏ | 395 s.CN (thời thống nhất), 476 tr.CN (Tây La Mã), AD 1453 (Đông La Mã) |
Vương vị lâm thời | không có |
Hoàng đế La Mã là danh hiệu mà giới sử học dùng để gọi những người cai trị La Mã trong thời đại đế chế. Về mặt từ nguyên, từ "hoàng đế" (tiếng Anh:Emperor, tiếng Pháp:Empereur) bắt nguồn từ danh hiệu "Imperator" trong tiếng Latin, có nghĩa là "người cai trị đế quốc". Người được xem là hoàng đế La Mã đầu tiên, Augustus, luôn tuyên bố mình là một công dân của nền Cộng hòa chứ không phải một vị vua theo kiểu phương Đông. Giống ông, những Hoàng đế sau đó coi danh hiệu của mình là một chức trách của nguyên thủ quốc gia-công dân thứ nhất, đồng thời là tổng chỉ huy quân đội và trong nhiều trường hợp là cả vai trò trong tôn giáo nhà nước.
Vì lý do trên, danh hiệu hoàng đế La Mã không thực sự là cha truyền con nối ít ra là trên danh nghĩa. Tuy nhiên từ thời Diocletianus, nền cai trị càng lúc càng trở nên có tính cách quân chủ. Đế quốc La Mã bị phân chia làm đôi từ thế kỷ IV và từ đó, trong khi đế quốc Tây La Mã nhanh chóng lụn bại, vị hoàng đế cuối cùng của Roma, Romulus Augustus phải thoái vị năm 476 thì đế quốc Đông La Mã hấp thu các yếu tố Đông phương trong đó có việc quân chủ hóa nền cai trị. Các vị Hoàng đế Byzantine tập trung quyền lực tối cao vào bản thân, gồm cả các yếu tố thần quyền, và tiếp tục trị vì cho tới năm 1453.