Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sân bay quốc tế Kansai”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 30: Dòng 30:
== Quá trình xây dựng ==
== Quá trình xây dựng ==
[[Tập tin:Finnair MD-11.jpg|nhỏ|trái|250px]]
[[Tập tin:Finnair MD-11.jpg|nhỏ|trái|250px]]
Sân bay Kansai được xây dựng trên hòn đảo nhân tạo với tổng diện tích 511 [[ha]]. Hòn đảo nằm trên vịnh Osaka cách đất liền 5 km, có [[hình chữ nhật]], nhìn từ trên xuống như một hàng không mẫu hạm. Để hoàn thành công trình tạo đảo và xây dựng sân bay, [[người Nhật]] đã phải mất 20 năm trời với 1500 tỉ [[Yên]] phí tổn. Đầu tiên người ta bỏ ra 6 năm với 550 triệu Yên để hoàn thành hòn đảo nhân tạo (bao gồm làm móng xây đê và đổ đất làm đảo).
Sân bay Kansai được xây dựng trên hòn đảo nhân tạo với tổng diện tích 511 [[hecta|ha]]. Hòn đảo nằm trên vịnh Osaka cách đất liền 5 km, có [[hình chữ nhật]], nhìn từ trên xuống như một hàng không mẫu hạm. Để hoàn thành công trình tạo đảo và xây dựng sân bay, [[người Nhật]] đã phải mất 20 năm trời với 1500 tỉ [[Yên Nhật|Yên]] phí tổn. Đầu tiên người ta bỏ ra 6 năm với 550 triệu Yên để hoàn thành hòn đảo nhân tạo (bao gồm làm móng xây đê và đổ đất làm đảo).


Đáy biển Osaka có tầng đất nhão dày 20m, phía dưới là tầng đất hồng tích dày 400m nữa. Muốn làm sân bay phải có móng thật chắc. Các kỹ thuật viên Nhật Bản đã quyết định đóng 1 triệu cọc thép có [[đường kính]] 40 cm vào tầng đất nhão, sau đó đổ đất lên gây áp lực cho nước ở dưới tầng đất thoát ra ngoài để tạo móng chắc. Tiếp theo, họ xây dựng một con đê bảo vệ lấy vùng biển sẽ xây đảo. Con đê dài 11 km được làm trong 2 năm gồm: 8666m đê bằng đá hộc đổ thoai thoải, 1790m đê bằng những khúc gang cong, 721m đê bằng các rọ đất đá, ngoài ra còn có 780m đê đóng bằng các cọc sắt. Sau khi làm xong con đê này, họ mới bắt đầu đổ [[đất]] [[cát]] thành [[đảo]]. Trải qua 3 năm thi công không nghỉ, người ta đã đổ vào đó 180 triệu m³ cát, hoàn thành một [[hòn đảo nhân tạo]] cao 33m từ đáy trở lên.
Đáy biển Osaka có tầng đất nhão dày 20m, phía dưới là tầng đất hồng tích dày 400m nữa. Muốn làm sân bay phải có móng thật chắc. Các kỹ thuật viên Nhật Bản đã quyết định đóng 1 triệu cọc thép có [[đường kính]] 40 cm vào tầng đất nhão, sau đó đổ đất lên gây áp lực cho nước ở dưới tầng đất thoát ra ngoài để tạo móng chắc. Tiếp theo, họ xây dựng một con đê bảo vệ lấy vùng biển sẽ xây đảo. Con đê dài 11 km được làm trong 2 năm gồm: 8666m đê bằng đá hộc đổ thoai thoải, 1790m đê bằng những khúc gang cong, 721m đê bằng các rọ đất đá, ngoài ra còn có 780m đê đóng bằng các cọc sắt. Sau khi làm xong con đê này, họ mới bắt đầu đổ [[đất]] [[cát]] thành [[đảo]]. Trải qua 3 năm thi công không nghỉ, người ta đã đổ vào đó 180 triệu m³ cát, hoàn thành một [[đảo nhân tạo|hòn đảo nhân tạo]] cao 33m từ đáy trở lên.


Sau khi làm xong đảo, người ta bắt tay vào xây dựng sân bay Kansai. Trước đó Nhật Bản đã mở rộng cuộc thi tuyển các đồ án thiết kế của [[kiến trúc sư]] [[Italia]] [[Renzo Piano]]. Sự ưu việt của đồ án này là toàn bộ tòa lầu sân bay hầu như không có [[bê tông]] mà chỉ là những thanh giằng bằng [[thép]] không rỉ lắp rắp với kính màu. Từ trên không trung nhìn xuống tòa lầu sân bay trông như một con chim lớn đang xòe hai cánh với nóc lầu có hình uốn lượn như [[sóng biển]]. Các mái lầu hạ thấp dần để tăng khả năng quan sát của tháp kiểm tra. Nhìn toàn bộ công trình rất nhẹ nhàng và thanh thoát.
Sau khi làm xong đảo, người ta bắt tay vào xây dựng sân bay Kansai. Trước đó Nhật Bản đã mở rộng cuộc thi tuyển các đồ án thiết kế của [[kiến trúc sư]] [[Ý|Italia]] [[Renzo Piano]]. Sự ưu việt của đồ án này là toàn bộ tòa lầu sân bay hầu như không có [[bê tông]] mà chỉ là những thanh giằng bằng [[thép]] không rỉ lắp rắp với kính màu. Từ trên không trung nhìn xuống tòa lầu sân bay trông như một con chim lớn đang xòe hai cánh với nóc lầu có hình uốn lượn như [[sóng biển]]. Các mái lầu hạ thấp dần để tăng khả năng quan sát của tháp kiểm tra. Nhìn toàn bộ công trình rất nhẹ nhàng và thanh thoát.


Để duy trì giao lưu giữa sân bay với bên ngoài, trước hết Nhật Bản cho xây cầu sắt nối liền đảo với đất liền dài 3,7 km. Cầu gồm 2 tầng, tầng trên rộng 30m có 12 đường xe hơi chạy với tốc độ 80 km/h, tầng dưới là [[đường sắt]]. Cầu có 31 mố cầu mà tới 29 mố cầu phải xây trên mặt biển. Để xây mố cầu người ta đóng cọc sắt sâu xuống đáy biển tới 60m. Chiều cao của cầu là 108m.
Để duy trì giao lưu giữa sân bay với bên ngoài, trước hết Nhật Bản cho xây cầu sắt nối liền đảo với đất liền dài 3,7 km. Cầu gồm 2 tầng, tầng trên rộng 30m có 12 đường xe hơi chạy với tốc độ 80 km/h, tầng dưới là [[đường ray|đường sắt]]. Cầu có 31 mố cầu mà tới 29 mố cầu phải xây trên mặt biển. Để xây mố cầu người ta đóng cọc sắt sâu xuống đáy biển tới 60m. Chiều cao của cầu là 108m.


== Khó khăn của sân bay ==
== Khó khăn của sân bay ==
Dòng 101: Dòng 101:
| [[United Airlines]] | San Francisco | Bắc
| [[United Airlines]] | San Francisco | Bắc
| [[Uzbekistan Airways]] | Tashkent | Bắc
| [[Uzbekistan Airways]] | Tashkent | Bắc
| [[Vietnam Airlines]] | Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh | Nam
| [[Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam|Vietnam Airlines]] | Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh | Nam
| [[Vladivostok Air]] | Vladivostok, Yuzhno-Sakhalinsk [hàng hóa] | Nam
| [[Vladivostok Air]] | Vladivostok, Yuzhno-Sakhalinsk [hàng hóa] | Nam
| [[Xiamen Airlines]] | Hàng Châu, Hạ Môn | Nam
| [[Xiamen Airlines]] | Hàng Châu, Hạ Môn | Nam

Phiên bản lúc 12:16, ngày 24 tháng 3 năm 2013

Sân bay Quốc tế Kansai
關西國際空港
Kansai Kokusai Kūkō
Mã IATA
KIX
Mã ICAO
RJBB
Thông tin chung
Kiểu sân bayquasi-public
Cơ quan quản lýKansai International Airport Co., Ltd.
Vị trí{{{location}}}
Tọa độ34°25′44″B 135°14′26″Đ / 34,42889°B 135,24056°Đ / 34.42889; 135.24056
Đường băng
Hướng Chiều dài Bề mặt
m ft
6/24 3.500 11.400 Bê tông
6L/24R 4.000 13.123 -

Sân bay Quốc tế Kansai là công trình do kiến trúc sư Renzo Piano xây dựng trên một đảo nhân tạo giữa vịnh Osaka. Cây cầu ra sân bay dài 3.500 km. Phòng khách của nó dài 1,7 km. Tên tiếng Anh là Kansai International Airport, tiếng Nhật là: 關西國際空港, Quan Tây Quốc tế Không cảng?)(IATA: KIX, ICAO: RJBB), là sân bay quốc tế lớn của Nhật Bản. Sân bay còn có tên Sân bay Osaka Kansai (tiếng Anh: Osaka Kansai Airport, tiếng Nhật: 大阪關西空港, Đại Phản Quan Tây Không cảng) hoặc KIX (關空, Quan không). Năm 2004, sân bay này có 102.862 chuyến bay, trong đó có 72.096 là quốc tế và 30.766 là chuyến nội địa, tổng lượng khách là 15.340.975 người trong đó có 11.162.533 là quốc tế và 4.178.422 là nội địa.

Quá trình xây dựng

Sân bay Kansai được xây dựng trên hòn đảo nhân tạo với tổng diện tích 511 ha. Hòn đảo nằm trên vịnh Osaka cách đất liền 5 km, có hình chữ nhật, nhìn từ trên xuống như một hàng không mẫu hạm. Để hoàn thành công trình tạo đảo và xây dựng sân bay, người Nhật đã phải mất 20 năm trời với 1500 tỉ Yên phí tổn. Đầu tiên người ta bỏ ra 6 năm với 550 triệu Yên để hoàn thành hòn đảo nhân tạo (bao gồm làm móng xây đê và đổ đất làm đảo).

Đáy biển Osaka có tầng đất nhão dày 20m, phía dưới là tầng đất hồng tích dày 400m nữa. Muốn làm sân bay phải có móng thật chắc. Các kỹ thuật viên Nhật Bản đã quyết định đóng 1 triệu cọc thép có đường kính 40 cm vào tầng đất nhão, sau đó đổ đất lên gây áp lực cho nước ở dưới tầng đất thoát ra ngoài để tạo móng chắc. Tiếp theo, họ xây dựng một con đê bảo vệ lấy vùng biển sẽ xây đảo. Con đê dài 11 km được làm trong 2 năm gồm: 8666m đê bằng đá hộc đổ thoai thoải, 1790m đê bằng những khúc gang cong, 721m đê bằng các rọ đất đá, ngoài ra còn có 780m đê đóng bằng các cọc sắt. Sau khi làm xong con đê này, họ mới bắt đầu đổ đất cát thành đảo. Trải qua 3 năm thi công không nghỉ, người ta đã đổ vào đó 180 triệu m³ cát, hoàn thành một hòn đảo nhân tạo cao 33m từ đáy trở lên.

Sau khi làm xong đảo, người ta bắt tay vào xây dựng sân bay Kansai. Trước đó Nhật Bản đã mở rộng cuộc thi tuyển các đồ án thiết kế của kiến trúc sư Italia Renzo Piano. Sự ưu việt của đồ án này là toàn bộ tòa lầu sân bay hầu như không có bê tông mà chỉ là những thanh giằng bằng thép không rỉ lắp rắp với kính màu. Từ trên không trung nhìn xuống tòa lầu sân bay trông như một con chim lớn đang xòe hai cánh với nóc lầu có hình uốn lượn như sóng biển. Các mái lầu hạ thấp dần để tăng khả năng quan sát của tháp kiểm tra. Nhìn toàn bộ công trình rất nhẹ nhàng và thanh thoát.

Để duy trì giao lưu giữa sân bay với bên ngoài, trước hết Nhật Bản cho xây cầu sắt nối liền đảo với đất liền dài 3,7 km. Cầu gồm 2 tầng, tầng trên rộng 30m có 12 đường xe hơi chạy với tốc độ 80 km/h, tầng dưới là đường sắt. Cầu có 31 mố cầu mà tới 29 mố cầu phải xây trên mặt biển. Để xây mố cầu người ta đóng cọc sắt sâu xuống đáy biển tới 60m. Chiều cao của cầu là 108m.

Khó khăn của sân bay

Hiện nay sân bay Kansai phải đối mặt với những khó khăn: sân bay không có vật cản gió cho những máy bay lên xuống. Công ty hàng không Nhật quy định nếu gặp sức gió vượt quá 13 m/s sẽ đình chỉ máy bay lên xuống. Như qua điều tra được biết, vịnh Osaka những ngày có sức gió 13 m/s chiếm 0,6% của một năm. Khó khăn thứ hai là sự ăn mòn của muối biển, nước biển thì là đương nhiên, nhưng gió biển cũng chứa đầy muối. Để chống muối, Nhật đã lặp đặt hệ thống lọc muối ở những chỗ thông gió. Song tuổi thọ của máy lọc muối cũng chỉ được có một năm nên nên hằng năm phải thay hàng loạt, tốn tới hàng trăm triệu Yên.

Khó khăn thứ 3 là sân bay được xây dựng trên đảo nhân tạo nên thường xuyên bị lún . Theo tính toán thì sau 30-50 năm đảo mới ổn định. Ban quản lý sân bay đã tính , ở đáy nước sâu 18m, đảo cao từ đáy trở lên 33m, mỗi ngày bình quân đảo lún 1mm đến khi ổn định sân bay vẫn còn cao hơn mặt biển 4m. Hơn nữa đảo có 98 cột lớn làm trụ cho toàn nền đảo, mặt khác toàn bộ cấu trúc trên đảo đều mỏng nhẹ nên tạm thời có thể yên tâm.

Các hãng hàng không quốc tế và các tuyến điểm

Tập tin:Kansai International Airport Boarding Lobby.jpg
Hành lang lên máy bay tầng 3, một phần của phòng đợi dài nhất thế giới.
Phòng vé tầng 4.

Sảnh đến quốc tế tại tầng 1, Sảnh đi quốc tế làm check-in tại tầng 4 và lên máy bay tại tầng 3.

Hãng hàng khôngCác điểm đếnWing
Aircalin Nouméa Nam
Air Busan Busan [từ 26.04.2010] Bắc
Air China Bắc Kinh - Thủ Đô, Đại Liên, Thượng Hải - Phố Đông Nam
Air France Paris-Charles de Gaulle Nam
Air India Delhi, Hong Kong, Mumbai Nam
Air Macau Macau Bắc
Air New Zealand Auckland, Christchurch Nam
Alitalia Rome-Fiumicino Bắc
All Nippon Airways Okinawa, Sapporo-Chitose Nội địa
All Nippon Airways A Dalian, Hong Kong, Thanh Đảo, Seoul-Gimpo [ngưng từ 28.03.2010][1], Seoul-Incheon, Bắc Kinh - Thủ Đô, Tokyo-Narita Bắc
All Nippon Airways bay bởi Air Nippon Fukuoka, Hakodate, Memanbetsu[theo mùa], Okinawa, Sapporo-Chiotse, Tokyo-Haneda, Wakkanai [theo mùal] Nội địa
All Nippon Airways bay bởi Air Nippon Bắc Kinh - Thủ Đô, Hàng Châu, Hạ Môn [ngưng từ 28.03.2010] Bắc
Asiana Airlines Busan, Saipan, Seoul-Gimpo, Seoul-Incheon Bắc
Cathay Pacific Hong Kong, Đài Bắc - Đào Viên Bắc
Cebu Pacific Manila Bắc
China Airlines Đài Bắc - Đào Viên Nam
China Eastern Airlines Bắc Kinh - Thủ Đô, Nam Kinh, Côn Minh, Thanh Đảo, Thượng Hải - Phố Đông, Yên Đài Nam
China Southern Airlines Trường Sa (Hồ Nam), Đại Liên, Quảng Châu, Cáp Nhĩ Tân, Thẩm Dương Nam
Continental Airlines bay bởi Continental Micronesia Guam Nam
Delta Air LinesB Guam, Honolulu, Seattle/Tacoma [từ 09.06.2010][2] Bắc
EgyptAir Cairo, Luxor Nam
Emirates Dubai Nam
EVA Air Đài Bắc - Đào Viên Bắc
Finnair Helsinki Bắc
Garuda Indonesia Denpasar/Bali, Jakarta Bắc
Hainan Airlines Haikou Nam
Japan Airlines Fukuoka, Okinawa, Sapporo-Chitose, Tokyo-Haneda Nội địa
Japan Airlines A Bắc Kinh - Thủ Đô, Quảng Châu, Hong Kong, Thượng Hải - Phố Đông, Đài Bắc - Đào Viên, Tokyo-Narita Nam
Japan Airlines bay bởi J-Air Fukuoka Nội địa
Japan Airlines bay bởi JALways Bangkok-Suvarnabhumi, Denpasar/Bali, Guam, Honolulu Nam
Japan Airlines bay bởi JAL Express Tokyo-Haneda Nội địa
Japan Airlines bay bởi JAL Express Seoul-Gimpo, Thượng Hải - Phố Đông Nam
Japan Airlines bay bởi Japan Transocean Air Ishigaki, Okinawa, Tokyo-Haneda Nội địa
Jeju Air Seoul-Gimpo, Seoul-Incheon Bắc
Jetstar Airways Cairns [từ 01.04.2010][3], Gold Coast, Sydney [ends 3 April] Bắc
Jin Air Seoul-Incheon Bắc
KLM Amsterdam Bắc
Korean Air Busan, Guam, Jeju, Seoul-Gimpo, Seoul-Incheon Bắc
Lufthansa Frankfurt Bắc
Malaysia Airlines Kota Kinabalu, Kuala Lumpur Bắc
MIAT Mongolian Airlines Ulan Bator [theo mùa] Bắc
Philippine Airlines Manila Nam
Qatar AirwaysC Doha Bắc
Shandong Airlines Tể Nam Bắc
Shanghai Airlines Thượng Hải - Phố Đông Bắc
Shenzhen Airlines Phúc Châu, Thâm Quyến, Vô Tích Nam
Singapore Airlines Singapore Nam
StarFlyer Tokyo-Haneda Nam
Thai Airways International Bangkok-Suvarnabhumi, Manila [ngưng từ 28.03.2010] Bắc
Turkish Airlines Istanbul-Atatürk Bắc
United Airlines San Francisco Bắc
Uzbekistan Airways Tashkent Bắc
Vietnam Airlines Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh Nam
Vladivostok Air Vladivostok, Yuzhno-Sakhalinsk [hàng hóa] Nam
Xiamen Airlines Hàng Châu, Hạ Môn Nam

Hàng hóa

Hãng hàng khôngCác điểm đến
Air China Cargo Bắc Kinh, Thượng Hải - Phố Đông
Aircompany Yakutia Thượng Hải - Phố Đông
Air Hong Kong Hong Kong
ANA Cargo Bangkok-Suvarnabhumi, Đại Liên, Thanh Đảo, Saga, Thượng Hải - Phố Đông, Tokyo-Haneda, Tokyo-Narita, Hạ Môn
ANA & JP Express Seoul- Incheon
Asiana Cargo Osaka-Itami, Seoul-Incheon
Cathay Pacific Cargo Hong Kong
China Airlines Cargo Đài Bắc - Đào Viên, Los Angeles
China Cargo Airlines Thượng Hải - Phố Đông, Xiamen
China Postal Airlines Thượng Hải - Phố Đông
Dragonair Hong Kong
FedEx Express Anchorage, Memphis, Oakland
JAL Cargo Bangkok-Suvarnabhumi, Dalian, Thành phố Hồ Chí Minh, Hong Kong, Thượng Hải - Phố Đông, Tianjin, Tokyo-Narita
Korean Air Cargo Seoul-Incheon
Lufthansa Cargo Frankfurt, Krasnoyarsk
Nippon Cargo Airlines Bangkok-Suvarnabhumi, Hong Kong, Thượng Hải - Phố Đông, Seoul-Incheon, Singapore, Tokyo-Narita
Polar Air Cargo Chicago-Ohare, Thượng Hải - Phố Đông
Shanghai Airlines Cargo Thượng Hải - Phố Đông
Singapore Airlines Cargo Los-Angeles, Singapore
UPS Airlines Anchorage, Clark, Thượng Hải - Phố Đông, Tokyo- Narita

Liên kết ngoài