Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chu Thành vương”
n Robot: Sửa đổi hướng |
|||
Dòng 25: | Dòng 25: | ||
</timeline> |
</timeline> |
||
| kiểu tại vị = Trị vì |
| kiểu tại vị = Trị vì |
||
| tiền nhiệm = <font color="grey">[[Chu Vũ Vương]]</font> |
| tiền nhiệm = <font color="grey">[[Chu Vũ vương|Chu Vũ Vương]]</font> |
||
| nhiếp chính = [[Chu Công Đán]] |
| nhiếp chính = [[Chu Công Đán]] |
||
| kế nhiệm = <font color="blue">[[Chu Khang Vương]]</font> |
| kế nhiệm = <font color="blue">[[Chu Khang vương|Chu Khang Vương]]</font> |
||
| phối ngẫu = |
| phối ngẫu = |
||
| vợ = |
| vợ = |
||
| chồng = |
| chồng = |
||
| thông tin con cái = ẩn |
| thông tin con cái = ẩn |
||
| con cái = [[Chu Khang |
| con cái = [[Chu Khang vương|Cơ Chiêu]] |
||
| hoàng tộc = [[Nhà Tây Chu]] |
| hoàng tộc = [[Nhà Chu|Nhà Tây Chu]] |
||
| kiểu hoàng tộc = Triều đại |
| kiểu hoàng tộc = Triều đại |
||
| tên đầy đủ = Cơ Tụng |
| tên đầy đủ = Cơ Tụng |
||
Dòng 41: | Dòng 41: | ||
| miếu hiệu = |
| miếu hiệu = |
||
| thụy hiệu = Thành Vương |
| thụy hiệu = Thành Vương |
||
| cha = [[Chu Vũ Vương]] |
| cha = [[Chu Vũ vương|Chu Vũ Vương]] |
||
| mẹ = |
| mẹ = |
||
| sinh = |
| sinh = |
||
Dòng 47: | Dòng 47: | ||
| nơi mất = [[Trung Quốc]] |
| nơi mất = [[Trung Quốc]] |
||
}} |
}} |
||
'''Chu Thành Vương''' ([[chữ Hán]]: 周成王; trị vì: [[1115 TCN]] – [[1079 TCN]]<ref>Trình Doãn Thắng, Ngô Trâu Cương, Thái Thành, sách đã dẫn, tr 19</ref> hoặc [[1042 TCN]] – [[1021 TCN]]<ref>Theo nghiên cứu của dự án [[Hạ Thương Chu đoạn đại công trình]] của các nhà sử học hiện đại Trung Quốc</ref> hoặc 1024 TCN - 1005 TCN <ref>Nguyễn Khắc Thuần, Các đời đế vương Trung Hoa, tr 20</ref>), tên thật là '''Cơ Tụng''' (姬誦), là vị [[ |
'''Chu Thành Vương''' ([[chữ Hán]]: 周成王; trị vì: [[1115 TCN]] – [[1079 TCN]]<ref>Trình Doãn Thắng, Ngô Trâu Cương, Thái Thành, sách đã dẫn, tr 19</ref> hoặc [[1042 TCN]] – [[1021 TCN]]<ref>Theo nghiên cứu của dự án [[Hạ Thương Chu đoạn đại công trình]] của các nhà sử học hiện đại Trung Quốc</ref> hoặc 1024 TCN - 1005 TCN <ref>Nguyễn Khắc Thuần, Các đời đế vương Trung Hoa, tr 20</ref>), tên thật là '''Cơ Tụng''' (姬誦), là vị [[danh sách vua Trung Quốc|vua]] thứ hai của [[nhà Chu]] trong [[lịch sử Trung Quốc]]. Trong thời gian đầu trị vì của ông, [[Chu Công Đán]] làm nhiếp chính. |
||
== Thân thế == |
== Thân thế == |
||
Ông là con trai của [[Chu Vũ Vương]] Cơ Phát – vị vua sáng lập nhà Chu. Sử sách không ghi chép mẹ ông là ai. |
Ông là con trai của [[Chu Vũ vương|Chu Vũ Vương]] Cơ Phát – vị vua sáng lập nhà Chu. Sử sách không ghi chép mẹ ông là ai. |
||
== Chu Công nhiếp chính == |
== Chu Công nhiếp chính == |
||
Dòng 65: | Dòng 65: | ||
:''"Chu Công Đán muốn giành ngôi đã lâu, nếu nhà vua không cảnh giác thì dễ xảy ra nguy biến".'' |
:''"Chu Công Đán muốn giành ngôi đã lâu, nếu nhà vua không cảnh giác thì dễ xảy ra nguy biến".'' |
||
Thành Vương tin lời gièm. Để tránh mâu thuẫn, Chu Công lui về ở ẩn tại [[nước Sở]]. Sau này Thành Vương xem được sắc thư của Chu Công trong chiếc rương quý mới hiểu rõ lòng trung thành và nhiệt tình của chú, rất hối hận và sai người đi đón Chu Công về. |
Thành Vương tin lời gièm. Để tránh mâu thuẫn, Chu Công lui về ở ẩn tại [[sở (nước)|nước Sở]]. Sau này Thành Vương xem được sắc thư của Chu Công trong chiếc rương quý mới hiểu rõ lòng trung thành và nhiệt tình của chú, rất hối hận và sai người đi đón Chu Công về. |
||
Chu Thành vương sai Thiệu Công xây dựng đông đô ở Lạc ấp theo ý nguyện của vua cha Chu Vũ Vương khi còn sống. Lạc ấp là trung tâm thiên hạ, các nước chư hầu từ 4 phương về đó đều có độ dài tương đối bằng nhau. |
Chu Thành vương sai Thiệu Công xây dựng đông đô ở Lạc ấp theo ý nguyện của vua cha Chu Vũ Vương khi còn sống. Lạc ấp là trung tâm thiên hạ, các nước chư hầu từ 4 phương về đó đều có độ dài tương đối bằng nhau. |
||
Dòng 75: | Dòng 75: | ||
Khi lâm bệnh nặng, Chu Thành vương sợ thái tử Chiêu không đảm đương nổi công việc, bèn triệu Thiệu công<ref>Thiệu công đây là con của Thiệu công Thích nước Yên được kế tục chức</ref> và Tất công đến, dặn giúp đỡ thái tử. |
Khi lâm bệnh nặng, Chu Thành vương sợ thái tử Chiêu không đảm đương nổi công việc, bèn triệu Thiệu công<ref>Thiệu công đây là con của Thiệu công Thích nước Yên được kế tục chức</ref> và Tất công đến, dặn giúp đỡ thái tử. |
||
Khoảng năm 1079 TCN ([[Hạ Thương Chu đoạn đại công trình]] xác định là năm 1021 TCN), Chu Thành Vương [[qua đời]]. Thái tử Cơ Chiêu lên thay, tức là [[Chu Khang Vương]]. |
Khoảng năm 1079 TCN ([[Hạ Thương Chu đoạn đại công trình]] xác định là năm 1021 TCN), Chu Thành Vương [[chết|qua đời]]. Thái tử Cơ Chiêu lên thay, tức là [[Chu Khang vương|Chu Khang Vương]]. |
||
== Xem thêm == |
== Xem thêm == |
||
* [[Nhà Chu]] |
* [[Nhà Chu]] |
||
* [[Chu Vũ Vương]] |
* [[Chu Vũ vương|Chu Vũ Vương]] |
||
* [[Chu Công]] |
* [[Chu Công Đán|Chu Công]] |
||
* [[Hạ Thương Chu đoạn đại công trình]] |
* [[Hạ Thương Chu đoạn đại công trình]] |
||
Phiên bản lúc 12:17, ngày 29 tháng 3 năm 2013
Chu Thành Vương 周成王 | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vua Trung Quốc | |||||||||
Thiên tử nhà Chu | |||||||||
Trị vì | 1115 TCN – 1079 TCN hoặc 1042 TCN - 1021 TCN hoặc 1024 TCN - 1005 TCN | ||||||||
Nhiếp chính | Chu Công Đán | ||||||||
Tiền nhiệm | Chu Vũ Vương | ||||||||
Kế nhiệm | Chu Khang Vương | ||||||||
Thông tin chung | |||||||||
Mất | 1079 TCN hoặc 1021 TCN (theo Hạ Thương Chu đoạn đại công trình) Trung Quốc | ||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||
| |||||||||
Triều đại | Nhà Tây Chu | ||||||||
Thân phụ | Chu Vũ Vương |
Chu Thành Vương (chữ Hán: 周成王; trị vì: 1115 TCN – 1079 TCN[1] hoặc 1042 TCN – 1021 TCN[2] hoặc 1024 TCN - 1005 TCN [3]), tên thật là Cơ Tụng (姬誦), là vị vua thứ hai của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời gian đầu trị vì của ông, Chu Công Đán làm nhiếp chính.
Thân thế
Ông là con trai của Chu Vũ Vương Cơ Phát – vị vua sáng lập nhà Chu. Sử sách không ghi chép mẹ ông là ai.
Chu Công nhiếp chính
Khi Chu Vũ Vương diệt nhà Thương lên làm thiên tử thì tuổi đã cao, thái tử Cơ Tụng còn ít tuổi. Không lâu sau, Vũ Vương bệnh mất. Trước khi qua đời, Vũ Vương ủy thác cho em là Chu Công Đán giúp Cơ Tụng làm vua.
Cơ Tụng lên nối ngôi, tức là vua Chu Thành Vương, chú là Cơ Đán làm phụ chính.
Ba người em khác của Chu Vũ Vương, chú của Thành Vương là Quản Thúc Tiên, Hoắc Thúc Xử và Sái Thúc Độ được phong đất làm “Tam giám” để canh chừng Vũ Canh nhưng lại nghe theo lời dụ của Vũ Canh, mưu lật đổ nhà Chu để khôi phục nhà Thương. Không lâu sau, ba người giúp Vũ Canh dấy binh của bộ lạc Hoắc Địa nổi loạn chống nhà Chu. Chu Công và Thiệu công tập trung dàn xếp xong việc nội chính, sau đó Chu Công mang quân đi đông chinh.
Qua 3 năm chiến tranh (1113 TCN), Chu Công đánh bại được quân nổi loạn, giết chết Vũ Canh và Quản Thúc Tiên; bắt Hoắc Thúc Xử và Sái Thúc Độ đi đày, phong đất Vệ của Quản Thúc trước đây cho em nhỏ của Vũ Vương là Khang Thúc.
Đích thân chấp chính
Chu Công Đán làm phụ chính trong 7 năm. Khoảng năm 1109 TCN, Chu Thành Vương khôn lớn, đã có thể đảm đương quốc sự, Chu Công trao lại việc triều chính cho ông. Có người gièm pha Chu Công với vua Thành Vương rằng:
- "Chu Công Đán muốn giành ngôi đã lâu, nếu nhà vua không cảnh giác thì dễ xảy ra nguy biến".
Thành Vương tin lời gièm. Để tránh mâu thuẫn, Chu Công lui về ở ẩn tại nước Sở. Sau này Thành Vương xem được sắc thư của Chu Công trong chiếc rương quý mới hiểu rõ lòng trung thành và nhiệt tình của chú, rất hối hận và sai người đi đón Chu Công về.
Chu Thành vương sai Thiệu Công xây dựng đông đô ở Lạc ấp theo ý nguyện của vua cha Chu Vũ Vương khi còn sống. Lạc ấp là trung tâm thiên hạ, các nước chư hầu từ 4 phương về đó đều có độ dài tương đối bằng nhau.
Chu Thành Vương lại phong Chu Công làm Thái sư, Thiệu công làm Thái bảo. Ông cùng Chu Công và Thiệu công đi chinh phạt phía đông để dẹp bộ lạc Hòa Di nước Yêm nổi loạn. Sau khi dẹp xong, Thành Vương dời vua nước đó đến đất Bồ Cô. Miền đông dẹp yên, vua nước Tức Thận đến chầu[4].
Thành Vương dùng Chu Công sáng lập và điều chỉnh các chế độ nghi lễ. Trong nước từ đó thái bình yên ổn.
Khi lâm bệnh nặng, Chu Thành vương sợ thái tử Chiêu không đảm đương nổi công việc, bèn triệu Thiệu công[5] và Tất công đến, dặn giúp đỡ thái tử.
Khoảng năm 1079 TCN (Hạ Thương Chu đoạn đại công trình xác định là năm 1021 TCN), Chu Thành Vương qua đời. Thái tử Cơ Chiêu lên thay, tức là Chu Khang Vương.
Xem thêm
Tham khảo
- Sử ký Tư Mã Thiên những điều chưa biết - Chu bản kỷ, Bùi Hạnh Cẩn - Việt Anh dịch (2005), NXB Văn hoá thông tin
- Trình Doãn Thắng, Ngô Trâu Cương, Thái Thành (1998), Cố sự Quỳnh Lâm, NXB Thanh Hoá
- Tiêu Lê, Mã Ngọc Chu, Lã Diên Đào (2004), 100 người đàn ông có ảnh hưởng đến lịch sử Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia
- Chu Mục, Trần Thâm chủ biên (2003), 365 truyện cổ sử chọn lọc Trung Quốc, tập 1, NXB Thanh niên
Chú thích
- ^ Trình Doãn Thắng, Ngô Trâu Cương, Thái Thành, sách đã dẫn, tr 19
- ^ Theo nghiên cứu của dự án Hạ Thương Chu đoạn đại công trình của các nhà sử học hiện đại Trung Quốc
- ^ Nguyễn Khắc Thuần, Các đời đế vương Trung Hoa, tr 20
- ^ Sử ký, Chu bản kỷ
- ^ Thiệu công đây là con của Thiệu công Thích nước Yên được kế tục chức