Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bánh giầy”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Mikaelo (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
n ct
Dòng 7: Dòng 7:
Cùng với [[bánh chưng]], bánh giầy có thể tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của [[người Việt]] xưa. Nó có màu [[trắng]], [[hình tròn]], được coi là đặc trưng cho bầu trời trong [[tín ngưỡng]] của người Việt. Tuy nhiên, [[Trần Quốc Vượng]] nói rằng bánh chưng và bánh giầy tượng trưng cho [[dương vật]] và [[âm hộ]] trong [[tín ngưỡng phồn thực]] Việt Nam <ref>[http://www.danangpt.vnn.vn/vanhoa/detail.php?id=42&a=76 Trần Quốc Vượng nói về bánh chưng và bánh giầy]</ref>.
Cùng với [[bánh chưng]], bánh giầy có thể tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của [[người Việt]] xưa. Nó có màu [[trắng]], [[hình tròn]], được coi là đặc trưng cho bầu trời trong [[tín ngưỡng]] của người Việt. Tuy nhiên, [[Trần Quốc Vượng]] nói rằng bánh chưng và bánh giầy tượng trưng cho [[dương vật]] và [[âm hộ]] trong [[tín ngưỡng phồn thực]] Việt Nam <ref>[http://www.danangpt.vnn.vn/vanhoa/detail.php?id=42&a=76 Trần Quốc Vượng nói về bánh chưng và bánh giầy]</ref>.


Các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam, như [[H'Mong]], [[người Dao|Dao]], [[người Mường|Mường]] cũng có bánh dày; tuy rằng họ không gói [[bánh chưng]]. Thay cho bánh chưng, họ gói [[bánh Ú]] hay [[bánh Tét]], loại bánh hình tròn dài, mà theo giải thích của [[Trần Quốc Vượng]] là phù hợp với quan niệm tín ngưỡng phồn thực.
Các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam, như [[H'Mong]], [[người Dao|Dao]], [[người Mường|Mường]] cũng có bánh dày; tuy rằng họ không gói [[bánh chưng]]. Thay cho bánh chưng, họ gói [[bánh ú]] hay [[bánh tét]], loại bánh hình tròn dài, mà theo giải thích của [[Trần Quốc Vượng]] là phù hợp với quan niệm tín ngưỡng phồn thực.


Người [[Nhật]] cũng có món ăn này.
Người [[Nhật]] cũng có món ăn này.
Dòng 35: Dòng 35:
Sự tích trên muốn nhắc nhở con cháu về:
Sự tích trên muốn nhắc nhở con cháu về:
*Truyền thống của dân tộc.
*Truyền thống của dân tộc.
*Giải thích ý nghĩa của Bánh Chưng, Bánh Giầy.
*Giải thích ý nghĩa của bánh chưng, bánh giầy.
*Tầm quan trọng của cây [[lúa]] và thiên nhiên trong nền [[văn hoá lúa nước]]...
*Tầm quan trọng của cây [[lúa]] và thiên nhiên trong nền [[văn hoá lúa nước]]...


Dòng 46: Dòng 46:
Có một địa danh gắn liền với bánh dày, đó là bánh dày Quán Gánh (trên đường từ [[Hà Nội]] đi [[Hải Dương]]). Khi đi qua địa danh giáp Hà Nội này, người ta thường gặp nhiều sạp bán bánh dày Quán Gánh. Loại bánh này thường bán thành một cọc gồm 5 bánh, nhân mặn hoặc nhân ngọt, gói trong [[lá chuối]] tươi.
Có một địa danh gắn liền với bánh dày, đó là bánh dày Quán Gánh (trên đường từ [[Hà Nội]] đi [[Hải Dương]]). Khi đi qua địa danh giáp Hà Nội này, người ta thường gặp nhiều sạp bán bánh dày Quán Gánh. Loại bánh này thường bán thành một cọc gồm 5 bánh, nhân mặn hoặc nhân ngọt, gói trong [[lá chuối]] tươi.


Các loại bánh của [[nông thôn]] [[miền Bắc Việt Nam]] kể trên thường để không được lâu, có lẽ chỉ một ngày là se mặt hoặc [[lại gạo]], hoặc ôi thiu.
Các loại bánh của [[nông thôn Việt Nam|nông thôn]] [[miền Bắc Việt Nam]] kể trên thường để không được lâu, có lẽ chỉ một ngày là se mặt hoặc [[lại gạo]], hoặc ôi thiu.


Với loại bánh dày của người vùng cao thì khác. Bánh được chế biến cùng cách kể trên mỗi dịp Tết, song được nặn to như cái [[bánh đa]]. Bánh được trữ trên gác bếp, để khô cả năm trời và là món ăn quý. Mỗi khi dùng, người ta xắt bánh ra thành miếng nhỏ, rồi nướng phồng trên [[bếp than]] như [[bánh tổ]].
Với loại bánh dày của người vùng cao thì khác. Bánh được chế biến cùng cách kể trên mỗi dịp Tết, song được nặn to như cái [[bánh đa]]. Bánh được trữ trên gác bếp, để khô cả năm trời và là món ăn quý. Mỗi khi dùng, người ta xắt bánh ra thành miếng nhỏ, rồi nướng phồng trên [[bếp than]] như [[bánh tổ]].

Phiên bản lúc 10:58, ngày 18 tháng 4 năm 2008

Một dĩa bánh giầy

Bánh giầy (có người viết là bánh dầy hay thậm chí bánh dày) là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Bánh thường được làm bằng xôi đã được giã thật mịn, có thể có nhân đậu xanh và sợi dừa với vị ngọt hoặc mặn.

Bánh có thể được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt và vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch (ngày giổ tổ Vua Hùng).

Cùng với bánh chưng, bánh giầy có thể tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa. Nó có màu trắng, hình tròn, được coi là đặc trưng cho bầu trời trong tín ngưỡng của người Việt. Tuy nhiên, Trần Quốc Vượng nói rằng bánh chưng và bánh giầy tượng trưng cho dương vậtâm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam [1].

Các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam, như H'Mong, Dao, Mường cũng có bánh dày; tuy rằng họ không gói bánh chưng. Thay cho bánh chưng, họ gói bánh ú hay bánh tét, loại bánh hình tròn dài, mà theo giải thích của Trần Quốc Vượng là phù hợp với quan niệm tín ngưỡng phồn thực.

Người Nhật cũng có món ăn này.

Sự tích

Bánh giầy có liên quan đến truyền thuyết Lang Liêu, xảy ra vào đời vua Hùng thứ 6:

Ngày xưa, đời vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con.

Nhân dịp đầu Xuân, vua Hùng họp các hoàng tử lại và yêu cầu các hoàng tử đêm dâng lên vua cha thứ mà họ cho là quí nhất để cúng lên bàn thờ tổ tiên nhân ngày đầu xuân.

Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng.

Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương là Tiết Liêu (còn gọi là Lang Liêu) có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức. Ông sống gần gũi với người nông dân lao động nghèo khổ nên ông lo lắng không có gì quí giá để dâng lên vua cha.

Một hôm Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: "Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành."

Tiết Liêu tỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là bánh chưng. Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là bánh giầy. Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái.

Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ, đủ cả sơn hào hải vị, nhiều món ngon lành. Hoàng tử Tiết Liêu thì chỉ có Bánh Giầy và Bánh Chưng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của Bánh Dầy Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi vua lại cho Tiết Liêu.

Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Dầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.

Sự tích trên muốn nhắc nhở con cháu về:

  • Truyền thống của dân tộc.
  • Giải thích ý nghĩa của bánh chưng, bánh giầy.
  • Tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hoá lúa nước...

Cách làm

Người ta chọn loại gạo nếp ngon, đồ kỹ (có thể đồ hai lượt), rồi giã trong cối tới khi có được một khối bột nếp chín dẻo quánh. Đây là công việc đòi hỏi sức vóc, thường chỉ nam thanh niên làm vì bột nếp chín đặc biệt dính và quánh, việc nhấc chày lên cũng không đơn giản. Nếu giã không nhuyễn hẳn ăn còn hạt gạo sẽ mất ngon, dễ bị "lại" bánh. Thường thường người ta có thể dùng chút mỡ lau vào đầu chày giã cho đỡ bị bết dính, nhưng óc lợn hấp chín được sử dụng cho mục đích này nhiều hơn.

Sử dụng và bảo quản

Bánh dày loại phổ biến nhất là loại bánh dày trắng không nhân, nhỏ bằng lòng bàn tay, nặn hình tròn dày chừng 1 đến 2 cm. Cứ 2 cái bánh thì thành một cặp. Người mua có thể chọn mua một cái hay cả cặp và thường kẹp ăn chung với giò lụa, giò bò, chả quế, ruốc...

Có một địa danh gắn liền với bánh dày, đó là bánh dày Quán Gánh (trên đường từ Hà Nội đi Hải Dương). Khi đi qua địa danh giáp Hà Nội này, người ta thường gặp nhiều sạp bán bánh dày Quán Gánh. Loại bánh này thường bán thành một cọc gồm 5 bánh, nhân mặn hoặc nhân ngọt, gói trong lá chuối tươi.

Các loại bánh của nông thôn miền Bắc Việt Nam kể trên thường để không được lâu, có lẽ chỉ một ngày là se mặt hoặc lại gạo, hoặc ôi thiu.

Với loại bánh dày của người vùng cao thì khác. Bánh được chế biến cùng cách kể trên mỗi dịp Tết, song được nặn to như cái bánh đa. Bánh được trữ trên gác bếp, để khô cả năm trời và là món ăn quý. Mỗi khi dùng, người ta xắt bánh ra thành miếng nhỏ, rồi nướng phồng trên bếp than như bánh tổ.

Chú thích

  1. ^ Trần Quốc Vượng nói về bánh chưng và bánh giầy

Xem thêm

Liên kết ngoài