Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Agnieszka Radwańska”
nKhông có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 9: | Dòng 9: | ||
|height= {{height|m=1.72|precision=0}} |
|height= {{height|m=1.72|precision=0}} |
||
|weight= {{convert|56|kg|lb|abbr=on}} |
|weight= {{convert|56|kg|lb|abbr=on}} |
||
|turnedpro= |
|turnedpro= 2005 |
||
|plays= Tay phải |
|plays= Tay phải , revers hai tay |
||
|careerprizemoney= 11,867,479 USD |
|||
|grip= |
|||
|careerprizemoney= US$11,867,479<ref>{{cite news |title=Agnieszka Radwanska Career Statistics |publisher=wtatennis.com |url=http://www.wtatennis.com/players/player/11530/title/agnieszka-radwanska}}</ref> |
|||
|singlesrecord= 372–160 |
|singlesrecord= 372–160 |
||
|singlestitles= 12 WTA, 2 [[Liên đoàn quần vợt Quốc tế|ITF]] |
|singlestitles= 12 WTA, 2 [[Liên đoàn quần vợt Quốc tế|ITF]] |
||
|highestsinglesranking= |
|highestsinglesranking= Số 2 (9 tháng 7 năm 2012) |
||
|currentsinglesranking= |
|currentsinglesranking= Số 4 (27 tháng 5 năm 2013) |
||
|AustralianOpenresult= Tứ kết (2008, 2011, 2012, 2013) |
|||
|AustralianOpenresult= QF ([[Giải quần vợt Úc Mở rộng 2008 - Đơn nữ|2008]], [[Giải quần vợt Úc Mở rộng 2011 - Đơn nữ|2011]], [[Giải quần vợt Úc Mở rộng 2012 - Đơn nữ|2012]], [[Giải quần vợt Úc Mở rộng 2013 - Đơn nữ|2013]]) |
|||
|FrenchOpenresult= |
|FrenchOpenresult= Tứ kết (2013) |
||
|Wimbledonresult= |
|Wimbledonresult= Chung kết (2012) |
||
|USOpenresult= Vòng 4 (2007, 2008, 2012) |
|||
|USOpenresult= 4R ([[Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2007 - Đơn nữ|2007]], [[Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2008 - Đơn nữ|2008]], [[Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2012 - Đơn nữ|2012]]) |
|||
|Othertournaments = yes |
|||
|WTAChampionshipsresult = SF ([[2012 WTA Tour Championships|2012]]) |
|WTAChampionshipsresult = SF ([[2012 WTA Tour Championships|2012]]) |
||
|Olympics Result = 1st Round |
|Olympics Result = 1st Round |
||
Dòng 28: | Dòng 26: | ||
|highestdoublesranking= No. 16 (10 October 2011) |
|highestdoublesranking= No. 16 (10 October 2011) |
||
|currentdoublesranking= No. 207 (27 May 2013) |
|currentdoublesranking= No. 207 (27 May 2013) |
||
|AustralianOpenDoublesresult = Bán kết (2010) |
|||
|grandslamsdoublesresults= yes |
|||
|FrenchOpenDoublesresult = Tứ kết (2009, 2010) |
|||
|AustralianOpenDoublesresult = SF ([[Giải quần vợt Úc Mở rộng 2010 - Đôi nữ|2010]]) |
|||
|WimbledonDoublesresult = Vòng 3 (2007, 2011, 2012 |
|||
|FrenchOpenDoublesresult = QF ([[Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2009 - Đôi nữ|2009]], [[Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2010 - Đôi nữ|2010]]) |
|||
|USOpenDoublesresult = Bán kết (2011) |
|||
|WimbledonDoublesresult = 3R ([[Giải Vô địch Wimbledon 2007 – Đôi nữ|2007]], [[Giải Vô địch Wimbledon 2011 – Đôi nữ|2011]], [[Giải Vô địch Wimbledon 2012 – Đôi nữ|2012]]) |
|||
|USOpenDoublesresult = SF ([[Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2011 - Đôi nữ|2011]]) |
|||
|updated = 27 tháng 5 năm 2013 |
|updated = 27 tháng 5 năm 2013 |
||
}} |
}} |
||
'''Agnieszka Radwańska''' là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người [[Ba Lan]]. Tính đến ngày 11 tháng 6 năm 2013 , cô được xếp hạng 4 thế giới |
'''Agnieszka Radwańska''' là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người [[Ba Lan]]. Tính đến ngày 11 tháng 6 năm 2013 , cô được xếp hạng 4 thế giới. Được biết đến là một tay vợt biết cách xây dựng chiến thuật thi đấu cũng như lối chơi thông minh , phòng ngự và phản công tốt ở cuối sân . Radwanska đã có được 12 danh hiệu đơn trong sự nghiệp . |
||
Radwanska đã từng tiến sâu vào 1 giải [[Grand Slam]] đó là tại giải [[Giải vô địch Wimbledon 2012|Wimbledon 2012]] và đã để thua [[Serena Williams]]. Ngoài ra còn vào được tứ kết của [[Giải quần vợt Úc Mở rộng|Úc Mở rộng]] và [[Giải quần vợt Roland Garros|Roland Garros]]. |
|||
==Chú thích== |
|||
{{reflist}} |
|||
Ngoài ra , cô còn chơi ở nội dung đôi , từng đánh cặp với [[Maria Kirilenko]] và [[Daniela Hantuchová]], nhưng sau năm 2010 , Radwanska tập trung cho nội dung đôi và ít khi cô tham gia đánh đôi. |
|||
{{sơ khai tiểu sử}} |
|||
== Cuộc sống cá nhân == |
|||
[[Thể loại:Nhân vật còn sống]] |
|||
[[Thể loại:Sinh 1989]] |
|||
Sinh ra tại [[Kraków]], Radwanska bắt đầu tập chơi tennis từ năm 4 tuổi. Khi đó , cha cô đã giúp cô làm quen với tennis cũng như các môn thể thao khác. Em gái cô là [[Urszula Radwanska]] cũng là 1 vận động viên quần vợt. Cô hâm mộ [[Martina Hingis]] và [[Pete Sampras]] và lấy đó làm nguồn cảm hứng chơi tennis cho mình. Ngoài chơi tennis, Radwanska còn nghiên cứu về lĩnh vực du lịch tại trường đại học tại Kraków. Cô cũng là một thành viên của [[Công giáo La Mã]]. |
|||
[[Thể loại:Vận động viên quần vợt Ba Lan]] |
|||
== Sự nghiệp == |
|||
=== 2005-2006: Những năm đầu trong sự nghiệp |
|||
Radwanska giành được danh hiệu [[ITF]] tại [[Giải Vô địch Wimbledon 2005|Wimbledon 2005]], đánh bại [[Tamira Paszek]] và tiếp tục có được danh hiệu ITF tại [[Giải quần vợt Roland Garros|Roland Garros 2006]] sau chiến thắng trước [Anastasia Pavlyuchenkova]]. Cô tham dự giải đấu [[WTA]] đầu tiên của mình là tại J & S Cup vào năm 2006 (sau này là Warsaw Open) ở [[Warsaw]], đánh bại [[Anastasia Myskina]] trong trận đấu ra quân đầu tiên của mình và để thua trước [[Elena Dementieva]] ở trận tứ kết trong vòng 3 set. |
|||
Tại Wimbledon năm 2006, cô thua [[Kim Clijsters]] tại vòng 4, và sau đó thua tại vòng 2 của [[Giải vô địch Mỹ Mở rộng|U.S Open]]. Tại giải đấu ở Luxembourg, Radwanska đã vượt qua [[Venus Williams]] ở vòng 2 và Elena Dementieva tại tứ kết và thua [[Francesca Schiavone]] ở |
|||
bán kết. |
|||
===2007-2008 === |
|||
Radwanska tham dự Úc Mở rộng 2007 nhưng cô thua [[Ana Ivanovic]] tại vòng 2. Tại Sony Ericsson Open năm 2007, cô đã đánh bại thần tượng của mình là Hingis tại vòng 3. |
Phiên bản lúc 10:11, ngày 12 tháng 6 năm 2013
Radwańska tại giải Toray Pan Pacific mở rộng 2011 | |
Quốc tịch | Ba Lan |
---|---|
Nơi cư trú | Kraków, Ba Lan |
Sinh | 6 tháng 3, 1989 Kraków, Ba Lan |
Chiều cao | 1,72 m (5 ft 8 in)[chuyển đổi: số không hợp lệ] |
Lên chuyên nghiệp | 2005 |
Tay thuận | Tay phải , revers hai tay |
Tiền thưởng | 11,867,479 USD |
Đánh đơn | |
Thắng/Thua | 372–160 |
Số danh hiệu | 12 WTA, 2 ITF |
Thứ hạng cao nhất | Số 2 (9 tháng 7 năm 2012) |
Thứ hạng hiện tại | Số 4 (27 tháng 5 năm 2013) |
Thành tích đánh đơn Gland Slam | |
Úc Mở rộng | Tứ kết (2008, 2011, 2012, 2013) |
Pháp mở rộng | Tứ kết (2013) |
Wimbledon | Chung kết (2012) |
Mỹ Mở rộng | Vòng 4 (2007, 2008, 2012) |
WTA Finals | SF (2012) |
Đánh đôi | |
Thắng/Thua | 111–86 |
Số danh hiệu | 2 WTA, 2 ITF titles |
Thứ hạng cao nhất | No. 16 (10 October 2011) |
Thứ hạng hiện tại | No. 207 (27 May 2013) |
Thành tích đánh đôi Gland Slam | |
Úc Mở rộng | Bán kết (2010) |
Pháp Mở rộng | Tứ kết (2009, 2010) |
Wimbledon | Vòng 3 (2007, 2011, 2012 |
Mỹ Mở rộng | Bán kết (2011) |
Cập nhật lần cuối: 27 tháng 5 năm 2013. |
Agnieszka Radwańska là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Ba Lan. Tính đến ngày 11 tháng 6 năm 2013 , cô được xếp hạng 4 thế giới. Được biết đến là một tay vợt biết cách xây dựng chiến thuật thi đấu cũng như lối chơi thông minh , phòng ngự và phản công tốt ở cuối sân . Radwanska đã có được 12 danh hiệu đơn trong sự nghiệp .
Radwanska đã từng tiến sâu vào 1 giải Grand Slam đó là tại giải Wimbledon 2012 và đã để thua Serena Williams. Ngoài ra còn vào được tứ kết của Úc Mở rộng và Roland Garros.
Ngoài ra , cô còn chơi ở nội dung đôi , từng đánh cặp với Maria Kirilenko và Daniela Hantuchová, nhưng sau năm 2010 , Radwanska tập trung cho nội dung đôi và ít khi cô tham gia đánh đôi.
Cuộc sống cá nhân
Sinh ra tại Kraków, Radwanska bắt đầu tập chơi tennis từ năm 4 tuổi. Khi đó , cha cô đã giúp cô làm quen với tennis cũng như các môn thể thao khác. Em gái cô là Urszula Radwanska cũng là 1 vận động viên quần vợt. Cô hâm mộ Martina Hingis và Pete Sampras và lấy đó làm nguồn cảm hứng chơi tennis cho mình. Ngoài chơi tennis, Radwanska còn nghiên cứu về lĩnh vực du lịch tại trường đại học tại Kraków. Cô cũng là một thành viên của Công giáo La Mã.
Sự nghiệp
=== 2005-2006: Những năm đầu trong sự nghiệp Radwanska giành được danh hiệu ITF tại Wimbledon 2005, đánh bại Tamira Paszek và tiếp tục có được danh hiệu ITF tại Roland Garros 2006 sau chiến thắng trước [Anastasia Pavlyuchenkova]]. Cô tham dự giải đấu WTA đầu tiên của mình là tại J & S Cup vào năm 2006 (sau này là Warsaw Open) ở Warsaw, đánh bại Anastasia Myskina trong trận đấu ra quân đầu tiên của mình và để thua trước Elena Dementieva ở trận tứ kết trong vòng 3 set.
Tại Wimbledon năm 2006, cô thua Kim Clijsters tại vòng 4, và sau đó thua tại vòng 2 của U.S Open. Tại giải đấu ở Luxembourg, Radwanska đã vượt qua Venus Williams ở vòng 2 và Elena Dementieva tại tứ kết và thua Francesca Schiavone ở bán kết.
2007-2008
Radwanska tham dự Úc Mở rộng 2007 nhưng cô thua Ana Ivanovic tại vòng 2. Tại Sony Ericsson Open năm 2007, cô đã đánh bại thần tượng của mình là Hingis tại vòng 3.