Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Agnieszka Radwańska”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã hủy sửa đổi của 42.118.215.122 (Thảo luận) quay về phiên bản của Prenn
Dòng 48: Dòng 48:
== Sự nghiệp ==
== Sự nghiệp ==
=== 2005-2006: Những năm đầu trong sự nghiệp===
=== 2005-2006: Những năm đầu trong sự nghiệp===
Radwanska giành được danh hiệu [[ITF]] tại [[Giải Vô địch Wimbledon 2005|Wimbledon 2005]], đánh bại [[Tamira Paszek]] và tiếp tục có được danh hiệu ITF tại [[Giải quần vợt Roland Garros|Roland Garros 2006]] sau chiến thắng trước [Anastasia Pavlyuchenkova]]. Cô tham dự giải đấu [[WTA]] đầu tiên của mình là tại J & S Cup vào năm 2006 (sau này là Warsaw Open) ở [[Warsaw]], đánh bại [[Anastasia Myskina]] trong trận đấu ra quân đầu tiên của mình và để thua trước [[Elena Dementieva]] ở trận tứ kết trong vòng 3 set đấu.<ref name=results>{{cite news |title=2006 Results |publisher=tennis.com |accessdate=15 January 2012 |url=http://www.tennis.com/players/player_stats.aspx?player_name=Agnieszka+Radwanska}}</ref>
Radwanska giành được danh hiệu [[ITF]] tại [[Giải Vô địch Wimbledon 2005|Wimbledon 2005]], đánh bại [[Tamira Paszek]] và tiếp tục có được danh hiệu ITF tại [[Giải quần vợt Roland Garros|Roland Garros 2006]] sau chiến thắng trước [[Anastasia Pavlyuchenkova]]. Cô tham dự giải đấu [[WTA]] đầu tiên của mình là tại J & S Cup vào năm 2006 (sau này là Warsaw Open) ở [[Warsaw]], đánh bại [[Anastasia Myskina]] trong trận đấu ra quân đầu tiên của mình và để thua trước [[Elena Dementieva]] ở trận tứ kết trong vòng 3 set đấu.<ref name=results>{{cite news |title=2006 Results |publisher=tennis.com |accessdate=15 January 2012 |url=http://www.tennis.com/players/player_stats.aspx?player_name=Agnieszka+Radwanska}}</ref>


Tại Wimbledon năm 2006, cô thua [[Kim Clijsters]] tại vòng 4, và sau đó thua tại vòng 2 của [[Giải vô địch Mỹ Mở rộng|U.S Open]]. Tại giải đấu ở Luxembourg, Radwanska đã vượt qua cựu hạt giống số 1 thế giới [[Venus Williams]] ở vòng 2 và Elena Dementieva tại tứ kết nhưng thua [[Francesca Schiavone]] ở bán kết.<ref name=results/>
Tại Wimbledon năm 2006, cô thua [[Kim Clijsters]] tại vòng 4, và sau đó thua tại vòng 2 của [[Giải vô địch Mỹ Mở rộng|U.S Open]]. Tại giải đấu ở Luxembourg, Radwanska đã vượt qua cựu hạt giống số 1 thế giới [[Venus Williams]] ở vòng 2 và Elena Dementieva tại tứ kết nhưng thua [[Francesca Schiavone]] ở bán kết.<ref name=results/>

Phiên bản lúc 02:28, ngày 14 tháng 6 năm 2013

Agnieszka Radwańska
Radwańska tại giải Toray Pan Pacific Open 2011
Quốc tịch Ba Lan
Nơi cư trúKraków, Ba Lan
Sinh6 tháng 3, 1989 (35 tuổi)
Kraków, Ba Lan
Chiều cao1,72 m (5 ft 8 in)[chuyển đổi: số không hợp lệ]
Lên chuyên nghiệp2005
Tay thuậnTay phải , revers hai tay
Tiền thưởng11,867,479 USD
Đánh đơn
Thắng/Thua372–160
Số danh hiệu12 WTA, 2 ITF
Thứ hạng cao nhấtSố 2 (9 tháng 7 năm 2012)
Thứ hạng hiện tạiSố 4 (27 tháng 5 năm 2013)
Thành tích đánh đơn Gland Slam
Úc Mở rộngTứ kết (2008, 2011, 2012, 2013)
Pháp mở rộngTứ kết (2013)
WimbledonChung kết (2012)
Mỹ Mở rộngVòng 4 (2007, 2008, 2012)
WTA FinalsSF (2012)
Đánh đôi
Thắng/Thua111–86
Số danh hiệu2 WTA, 2 ITF titles
Thứ hạng cao nhấtNo. 16 (10 October 2011)
Thứ hạng hiện tạiNo. 207 (27 May 2013)
Thành tích đánh đôi Gland Slam
Úc Mở rộngBán kết (2010)
Pháp Mở rộngTứ kết (2009, 2010)
WimbledonVòng 3 (2007, 2011, 2012
Mỹ Mở rộngBán kết (2011)
Cập nhật lần cuối: 27 tháng 5 năm 2013.

Agnieszka Radwańska là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Ba Lan. Tính đến ngày 11 tháng 6 năm 2013, cô được xếp hạng 4 thế giới. Được biết đến là một tay vợt biết cách xây dựng chiến thuật thi đấu cũng như lối chơi thông minh, phòng ngự và phản công tốt ở cuối sân,[1] Radwanska đã có được 12 danh hiệu đơn trong sự nghiệp .

Radwanska đã từng tiến sâu vào 1 giải Grand Slam đó là tại giải Wimbledon 2012 và đã để thua Serena Williams. Ngoài ra còn vào được tứ kết của Úc Mở rộngRoland Garros.

Ngoài ra , cô còn chơi ở nội dung đôi , từng đánh cặp với Maria KirilenkoDaniela Hantuchová, nhưng sau năm 2010 , Radwanska tập trung cho nội dung đôi và ít khi cô tham gia đánh đôi.

Cuộc sống cá nhân

Sinh ra tại Kraków, Radwanska bắt đầu tập chơi tennis từ năm 4 tuổi. Khi đó , cha cô đã giúp cô làm quen với tennis cũng như các môn thể thao khác. Em gái cô là Urszula Radwanska cũng là 1 vận động viên quần vợt. Cô hâm mộ Martina HingisPete Sampras và lấy đó làm nguồn cảm hứng chơi tennis cho mình. Ngoài chơi tennis, Radwanska còn theo học ngành du lịch tại trường đại học tại Kraków.[2][3] Cô cũng là một tín đồ Công giáo La Mã, và từng tham gia vào chiến dịch "Nie wstydzę się Jezusa!" (Tôi chẳng lấy làm hổ thẹn vì đấng Kitô!) của Công giáo Ba Lan. Trong chiến dịch này, cô phát hành một video kêu gọi người hâm mộ "đừng hổ thẹn vì đức tin của mình" và dùng những quả bóng tennis để xếp thành dòng chữ "JEZUS" ("[[|Jesus|JESUS]]").[4]

Sự nghiệp

2005-2006: Những năm đầu trong sự nghiệp

Radwanska giành được danh hiệu ITF tại Wimbledon 2005, đánh bại Tamira Paszek và tiếp tục có được danh hiệu ITF tại Roland Garros 2006 sau chiến thắng trước Anastasia Pavlyuchenkova. Cô tham dự giải đấu WTA đầu tiên của mình là tại J & S Cup vào năm 2006 (sau này là Warsaw Open) ở Warsaw, đánh bại Anastasia Myskina trong trận đấu ra quân đầu tiên của mình và để thua trước Elena Dementieva ở trận tứ kết trong vòng 3 set đấu.[5]

Tại Wimbledon năm 2006, cô thua Kim Clijsters tại vòng 4, và sau đó thua tại vòng 2 của U.S Open. Tại giải đấu ở Luxembourg, Radwanska đã vượt qua cựu hạt giống số 1 thế giới Venus Williams ở vòng 2 và Elena Dementieva tại tứ kết nhưng thua Francesca Schiavone ở bán kết.[5]

2007-2008

Radwańska tại Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2007.

Radwanska tham dự Úc Mở rộng 2007 nhưng cô thua Ana Ivanovic tại vòng 2. Tại Sony Ericsson Open năm 2007, cô đã đánh bại thần tượng của mình là Hingis[3] tại vòng 3. Nhưng cô phải rời khỏi giải đấu vì thua Tathiana Garbin tại vòng 4.[6]

Chú thích

  1. ^ Sengupta, Jaydip (16 tháng 2 năm 2012). “Agnieszka Radwanska: The fan favourite”. Gulf News. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2012.
  2. ^ “WTA Profile”. wtatennis.com. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2012.
  3. ^ a b Bodo, Pete (31 tháng 3 năm 2012). “Born This Way”. tennis.com. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
  4. ^ “Radwańska lepsza niż dyplomacja Tuska”. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2013.
  5. ^ a b “2006 Results”. tennis.com. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2012.
  6. ^ “2007 Results”. ESPN. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2011.

Liên kết ngoài

Giải thưởng
Tiền nhiệm:
Ấn Độ Sania Mirza
Giải Thành viên mới của Hiệp hội quần vợt nữ
2006
Kế nhiệm:
Hungary Ágnes Szávay
Tiền nhiệm:
Nga Maria Sharapova
Giải Tay vợt đơn được nhiều người hâm mộ nhất
của Hiệp hội quần vợt nữ

2011, 2012
Kế nhiệm:
đương nhiệm
Thế vận hội
Tiền nhiệm:
Marek Twardowski
Mang cờ cho  Ba Lan
Luân Đôn 2012
Kế nhiệm:
đương nhiệm