Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sông Bến Hải”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 11: Dòng 11:
Sông Bến Hải được biết đến nhiều nhất vì vị trí chia cắt hai miền Nam và Bắc Việt Nam trong suốt cuộc [[Chiến tranh Việt Nam]]. Về mặt địa lý thì sông nằm nhích xuống phía nam [[vĩ tuyến 17]]. [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]] quy định đây là [[khu phi quân sự|giới tuyến phi quân sự]] tạm thời vào năm [[1954]].
Sông Bến Hải được biết đến nhiều nhất vì vị trí chia cắt hai miền Nam và Bắc Việt Nam trong suốt cuộc [[Chiến tranh Việt Nam]]. Về mặt địa lý thì sông nằm nhích xuống phía nam [[vĩ tuyến 17]]. [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]] quy định đây là [[khu phi quân sự|giới tuyến phi quân sự]] tạm thời vào năm [[1954]].


Ngày [[4 tháng 10]] năm [[1957]] báo chí Việt Nam Cộng hòa loan tin có ba người vượt tuyến từ [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|miền Bắc]] bơi qua sông Bến Hải vào [[Việt Nam Cộng hòa|Nam]].<ref>Nguyễn An Tiêm. "Sổ luân lưu". ''Khởi Hành'' Năm XV, số 169. Tháng 11, 2010. tr 6</ref>
Ngày [[4 tháng 10]] năm [[1957]] báo chí Việt Nam Cộng hòa loan tin có ba người vượt tuyến từ [[miền Bắc Việt Nam|miền Bắc]] bơi qua sông Bến Hải vào [[miền Nam Việt Nam|Nam]].<ref>Nguyễn An Tiêm. "Sổ luân lưu". ''Khởi Hành'' Năm XV, số 169. Tháng 11, 2010. tr 6</ref>


==Chú thích==
==Chú thích==

Phiên bản lúc 22:58, ngày 23 tháng 10 năm 2013

Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải

Sông Bến Hải hay Rào Thanh[1] là một con sông tại miền Trung Việt Nam. Sông này bắt nguồn từ núi Động Chân[1] thuộc dãy Trường Sơn và chảy dọc theo vĩ tuyến 17° Bắc từ tây sang đông rồi đổ ra biển ở Cửa Tùng. Bến Hải là một địa danh ở thượng lưu sông, nên tên sông Bến Hải lấy từ địa danh này. Sông Bến Hải chảy cách biển khoảng 20 km thì nhận một phụ lưu là sông Sa Lung bên tả ngạn. Hai con sông hợp lưu chảy tiếp ra Biển Đông, qua một làng ở bờ bắc có tên là Minh Lương nên được gọi là sông Minh Lương.

Sông có tổng chiều dài chừng 100 km, nơi rộng nhất khoảng 200 m, là ranh giới giữa hai huyện Vĩnh LinhGio Linh thuộc tỉnh Quảng Trị.

Về tên sông, có thuyết nói là địa danh nguyên gọi là "Bến Hói". "Hói" là tiếng địa phương nghĩa là dòng sông nhỏ. Vì vậy "Bến Hải" là đọc trại từ "Bến Hói".

Lịch sử

Triều Minh Mạng nhà Nguyễn, do phải kiêng húy của vua nên cả tên làng và tên sông "Minh Lương" đều đổi thành Hiền Lương. Sau đó khi có cây cầu bắc ngang sông không mấy xa ngã ba sông Sa Lung và sông Bến Hải cũng mang tên cầu Hiền Lương.

Sông Bến Hải được biết đến nhiều nhất vì vị trí chia cắt hai miền Nam và Bắc Việt Nam trong suốt cuộc Chiến tranh Việt Nam. Về mặt địa lý thì sông nằm nhích xuống phía nam vĩ tuyến 17. Hiệp định Genève quy định đây là giới tuyến phi quân sự tạm thời vào năm 1954.

Ngày 4 tháng 10 năm 1957 báo chí Việt Nam Cộng hòa loan tin có ba người vượt tuyến từ miền Bắc bơi qua sông Bến Hải vào Nam.[2]

Chú thích

  1. ^ a b Phạm Hữu Trác. "Sông Bến Hải". Tập san Y sĩ Năm thứ 36, số 189. Tháng 4 năm 2011. trang 100-108.
  2. ^ Nguyễn An Tiêm. "Sổ luân lưu". Khởi Hành Năm XV, số 169. Tháng 11, 2010. tr 6

Thư viện ảnh

Xem thêm