Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận Nam Định (1883)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 47: Dòng 47:


Trong lúc Rivière ở Nam Định thì tại Hà Nội, lực lượng của de Villers bị 4.000 quân tấn công trong đêm ngày 26 và 27 tháng 3.<ref name=Antonini272/> Tuy quân Pháp ở Hà Nội đẩy lui được hai cuộc tấn công buổi đêm này nhưng tình hình nghiêm trọng vẫn buộc Rivière phải trở về Hà Nội ngày [[2 tháng 4]] đồng thời đề nghị đô đốc Mayer, chỉ huy hải quân Pháp ở Trung Quốc, đưa quân ứng cứu.<ref name=Antonini273>Antonini, Paul, tr. 273</ref>
Trong lúc Rivière ở Nam Định thì tại Hà Nội, lực lượng của de Villers bị 4.000 quân tấn công trong đêm ngày 26 và 27 tháng 3.<ref name=Antonini272/> Tuy quân Pháp ở Hà Nội đẩy lui được hai cuộc tấn công buổi đêm này nhưng tình hình nghiêm trọng vẫn buộc Rivière phải trở về Hà Nội ngày [[2 tháng 4]] đồng thời đề nghị đô đốc Mayer, chỉ huy hải quân Pháp ở Trung Quốc, đưa quân ứng cứu.<ref name=Antonini273>Antonini, Paul, tr. 273</ref>

==Kết quả==
Sau khi hạ thành, quân Pháp chiếm được 98 cỗ đại bác, trong đó có cả 5 khẩu pháo 30mm mà Pháp trao cho phía Việt Nam sau [[Hòa ước Giáp Tuất (1874)|hòa ước 1974]]. Vì thành Nam Định nhỏ hơn thành Hà Nội, và dù bị một số hư hại trong cuộc pháo kích, vẫn có giá trị phòng thủ, nên Rivière quyết định đóng giữ thành này. Viên chỉ huy tiểu đoàn Badens được cử làm quan trấn thủ thành Nam Định với 440 lính và hai pháo thuyền. Badens nhanh chóng tái lập trật tự, tổ chức lại hội đồng hành chính, phân bổ quan lại theo gợi ý của đoàn truyền giáo Công giáo địa phương. Tới ngày 31 tháng 3, khi Rivière trở lại Hà Nội, quán xá tại Nam Định đã mở cửa trở lại và dân chúng tản cư trở về thành.


==Chú thích==
==Chú thích==

Phiên bản lúc 22:28, ngày 26 tháng 11 năm 2013

Trận Nam Định
Một phần của Chiến dịch Bắc Kỳ

Trận đồn Kép
Thời gian27 tháng 3 năm 1883
Địa điểm
Kết quả Quân Pháp chiến thắng
Thay đổi
lãnh thổ
Thành Nam Định rơi vào tay quân Pháp
Tham chiến
Pháp Pháp Tập tin:Early Nguyen Dynasty Flag.svg Nhà Nguyễn
Quân cờ đen
Chỉ huy và lãnh đạo
Pháp Henri Rivière Tập tin:Early Nguyen Dynasty Flag.svg Vũ Trọng Bình
Tập tin:Early Nguyen Dynasty Flag.svg Đề đốc Lê Văn Điếm
Tập tin:Early Nguyen Dynasty Flag.svg Án sát Hồ Bá Ôn
Vinh Thong Chat
Lực lượng
6 pháo thuyền
520 thủy binh đánh bộ
20 lính mộ
60 thủy thủ
6.200 quân Việt
600 quân cờ đen
Thương vong và tổn thất
4 người bị thương 200 chết và bị thương

Trận Nam Định (27 tháng 3 năm 1883), là một cuộc chạm trán giữa quân Pháp và quân Việt Nam, trong giai đoạn đầu của Chiến dịch Bắc Kỳ thuộc chiến tranh Pháp-Việt (1858-1884). Trong một chiến dịch ngắn ngủi vào tuần cuối cùng của tháng 3 năm 1883, Chỉ huy Henri Rivière đánh hạ thành Nam Định, thành phố lớn thứ nhì ở Bắc Kỳ, với một hạm đội pháo thuyền nhỏ và một tiểu đoàn thủy quân đánh bộ.[1]

Việc Rivière đánh chiếm Nam Định đánh dấu một bước leo thang quan trọng thể hiện tham vọng của người Pháp tại Bắc Kỳ, và có hệ quả nghiêm trọng. Nhà Thanh (Trung Quốc) bắt đầu ngầm hỗ trợ chính quyền nhà Nguyễn chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp. Sự can thiệp của quân Thanh tại Bắc Kỳ cuối cùng dẫn đến cuộc chiến tranh Pháp-Thanh kéo dài 9 tháng (8 năm 1884 tới 4 năm 1885).

Bối cảnh

Henri Rivière (1827–83)

Sự can thiệp quân sự của Pháp vào miền bắc Việt Nam là kết quả của các hành động quân sự thiển cận bởi chỉ huy Henri Rivière, vốn được cử đi ra Hà Nội với một lực lượng quân sự nhỏ cuối năm 1881, để xem xét các phàn nàn từ phía phía Việt Nam về các thương gia Pháp.[2] Tuy nhiên, Riviere đã ngang nhiên đi ngược lại các chỉ thị của mình, và đánh thành Hà Nội ngày 25 tháng 4 năm 1882.[3] Mặc dù Rivière tiếp đó trao lại thành cho phía Việt Nam quản lý, thì việc ông ta sử dụng vũ lực cũng đã đặt cả Việt Nam và Trung Hoa vào tình trạng báo động.[4]

Thành Hà-Nội thất thủ, Tự-Đức liền ra lệnh cho 2 quan kinh lược chính và phó sứ Nguyễn Chính và Bùi Ân Niên rút binh về mặt Mỹ Đức để cùng Hoàng Tá Viêm tổ chức việc phòng liệu. Chính quyền Việt Nam, do không thể ngăn chặn Rivière với quân đội yếu kém của mình, phải nhờ đến Lưu Vĩnh Phúc, với đạo quân cờ đen thiện chiến và dày dặn của mình, làm thành một cái gai trong mắt người Pháp. Tại Huế, khâm sứ Rheinart yêu cầu triều đình cử tổng đốc mới ra Bắc Kỳ để tiếp nhận lại tỉnh thành Hà Nội. Triều đình điều cựu Tổng đốc Hà-Ninh đã về hưu trí là Trần Đình Túc sung khâm sai đại thần cùng với Tịnh biên phó sứ Nguyễn Hữu Độ làm phó khâm sai ra Hà Nội hội thương thuyết nhận lại tỉnh thành. Trong khi H.Rivière và Trần Đình Túc thương lượng để quân Pháp rút lui hết ra khỏi thành Hà Nội thì lực lượng quân binh của Hoàng Tá Viêm, Nguyễn Chánh, Bùi Ân Niên dâng sớ xin đánh nhưng Tự Đức không chấp thuận.

Phía Việt Nam cũng nhờ đến sự giúp sức của Trung Hoa, vì Việt Nam vốn là một nước chư hầu truyền thống, nên Trung Hoa cũng đồng ý giúp vũ khí và hỗ trợ cho quân Cờ đen, đồng thời ngấm ngầm chống lại các hoạt động của người Pháp ở miền Bắc Việt. Nhà Thanh cũng đánh tiếng với người Pháp rằng Trung Hoa sẽ không để Bắc Kỳ rơi vào tay Pháp. Mùa hè năm 1882, Tổng Đốc Vân Nam Tạ Kính Bưu đưa quân Thanh từ Vân NamQuảng Tây vượt biên giới tiến vào Bắc Kỳ, chiếm đóng Lạng Sơn, Bắc Ninh, Hưng Hóa và nhiều thị trấn khác.[5] Đại binh của nhà Thanh ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây cũng đưa quân đóng dọc biên giới. Bộ trưởng Pháp đặc trách Trung Hoa, Frédéric Bourée, lo ngại về khả năng xảy ra chiến tranh với Trung Quốc, nên trong tháng 11 và 12 năm 1882, thỏa thuận với quan đại thần nhà Thanh là Lý Hồng Chương nhằm chia cắt Bắc Kỳ thành các vùng ảnh hưởng của nhà Thanh và Pháp. Cả hai phía tham gia đàm phán đều bị chỉ trích là đã nhượng bộ quá nhiều, và thỏa thuận này tan vỡ. Phía Trung Quốc không thông qua nó, còn tại Pháp, chính phủ mới của Jules Ferry bác bỏ thỏa thuận này vào tháng 3 năm 1883, và triệu hồi Bourée về nước.[6]

Gần một năm sau khi đánh chiếm thành Hà Nộị H.Rivière bị đặt trong tư thế phòng thủ đơn độc để chờ kết quả của những cuộc thương lượng ngoại giao giữa các chính phủ Bắc Kinh, Paris và Huế. Sau nhiều cuộc tranh cãi trong nội các chính phủ Pháp, Paris quyết định tăng viện cho Sài Gòn thêm 700 binh sĩ, do tàu Corrèze chở đến Sài Gòn ngày 13 tháng 2 1883 và chuyển quân ra Bắc Kỳ vào ngày 15 tháng 02 1883. Ngày 10 tháng 11 dl 1882, một công điện khẩn cấp của bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa gởi tới Sài Gòn cách chức Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Villers với lý do đương sự vượt quá quyền hạn và bị thay thế bởi Charles Thomson. [7] Thomson nhận bàn giao chức vụ thống đốc Nam Kỳ vào ngày 12 tháng 01 1883.

Quí Mùi, Tự Đức thứ 36 (1883), tại Pháp, Hội đồng Nội các Pháp luôn luôn bất đồng quan điểm cũng như quốc hội của nước Pháp không muốn dính líu đến những rắc rối đang xảy ra ở Bắc Kỳ và vì thế mà nội các Pháp đã phải thay đổi liên tục chỉ trong vòng mấy tháng, ghế bộ trưởng Hải ngoại và Thuộc Địa của Jauréguiberry cuối cùng phải giao cho một nhân vật dân sự là Charles Brun.

Ở Hà Nội, H.Rivière được tin trều đình Huế đang có ý định nhượng quyền khai thác khu mỏ than Hòn-Gai cho một công ty người Hoa ở Quảng Đông và công ty nầy có thể sẽ nhượng lại cho người Anh hoặc người Đức và như thế sẽ tạo thêm nhiều rắc rối cho người Pháp trong tương lai. [8] H.Rivière liền chiếm lấy mỏ than Hòn Gai vào ngày 12 tháng 03 năm 1883 và đặt một đồn binh canh giữ gồm có 25 binh sĩ.

Diễn biến

Thành Nam Định, tháng 3 1883

Rivière thông báo cho Thống đốc Thomson biết rằng tổng đốc Nam Định đã tuyển mộ từ 10 đến 20 ngàn dân phu để xây đắp các chướng ngại vật trên các sông ngòi nhằm chặn đường thông thương và tiếp vận của quân Pháp từ ngoài cửa biển. Có thêm số quân vừa được Sài Gòn gởi ra Tăng viện, H.Rivière quyết định đánh chiếm thành Nam Định.

Ngày 23 tháng 3 năm 1883, Henri Rivière để Berthe de Villers cùng 400 quân ở lại Hà Nội để chỉ huy quân Pháp tiến tới Nam Định. Lực lượn của H.Rivière mang đi gồm có hơn 4 đại đội thủy quân đánh bộ, tuần thám hạm Pluvier, các pháo thuyền Fanfare, Hache, Yalagan, Carabine, Surprise, tàu nhỏ hơi nước Hải Phòng, các tàu chuyển vận loại nhỏ Kiang Nam, Tonkin, Whampoa và 4 ghe mành. Ngày 25, đoàn thuyền chiến của H.Rivière tới trước thành Nam Định. Sau khi cho binh sĩ đổ bộ, H.Rivière gởi tối hậu thư buộc tổng đốc Nam Định giao nộp thành. Một lần nữa kịch bản chiếm thành Hà Nội được lặp lại khi tổng đốc Nam Định không tới gặp Rivière theo thư yêu cầu và lập tức quân Pháp tổ chức đánh thành Nam Định. Ngày 26 tháng 03 quân Pháp kết thúc cuộc tuần thám quanh thành. Tới 7 giờ sáng, tàu chiến của Pháp từ sông Vị Hoàng bắt đầu bắn đạn đại bác vào thành và vào lúc 11 giờ, quân Pháp xung phong đoạt thành.

Thành Nam Định được phòng thủ bởi 6.200 binh lính Việt, do Tổng đốc Võ Trọng Bình, Bố chánh Đồng Sĩ Vịnh thúc quân trong thành chống trả. Khoảng 600 quân Thanh được điều từ thành Bắc Ninh, do một tướng Cờ đen chỉ huy, đóng giả quân Cờ đen cũng chiến đấu cùng quân triều đình. Đề đốc Lê Văn Điếm, Án sát Hồ Bá Ôn kéo quân từ trong thành xong ra ngoài đánh chận Lê văn Điếm tử trận, Hồ Bá Ôn bị thương nặng về sau không chữa được rồi cũng chết, quân Pháp tràn vào thành; quân triều đình bỏ chạy khắp nơi. Phía quân Pháp có 3 binh sĩ bị thương và một sĩ quan là trung tá Carreau bị thương nặng và chết sáu tuần lễ sau đó. Phía quân binh triều đình giữ thành có 200 binh sĩ bị loại trừ ra khỏi vòng chiến. Sự kiện này đã khiến chính phủ Pháp lo lắng và một lần nữa ra lệnh cho quân Pháp chỉ được can thiệp khi thực sự cần thiết. Quyết định của chính phủ Pháp chứng tỏ người Pháp vẫn đang lưỡng lự trước việc mở một cuộc chiến tranh toàn diện ở Đại Nam.[9]

Trong lúc Rivière ở Nam Định thì tại Hà Nội, lực lượng của de Villers bị 4.000 quân tấn công trong đêm ngày 26 và 27 tháng 3.[9] Tuy quân Pháp ở Hà Nội đẩy lui được hai cuộc tấn công buổi đêm này nhưng tình hình nghiêm trọng vẫn buộc Rivière phải trở về Hà Nội ngày 2 tháng 4 đồng thời đề nghị đô đốc Mayer, chỉ huy hải quân Pháp ở Trung Quốc, đưa quân ứng cứu.[10]

Kết quả

Sau khi hạ thành, quân Pháp chiếm được 98 cỗ đại bác, trong đó có cả 5 khẩu pháo 30mm mà Pháp trao cho phía Việt Nam sau hòa ước 1974. Vì thành Nam Định nhỏ hơn thành Hà Nội, và dù bị một số hư hại trong cuộc pháo kích, vẫn có giá trị phòng thủ, nên Rivière quyết định đóng giữ thành này. Viên chỉ huy tiểu đoàn Badens được cử làm quan trấn thủ thành Nam Định với 440 lính và hai pháo thuyền. Badens nhanh chóng tái lập trật tự, tổ chức lại hội đồng hành chính, phân bổ quan lại theo gợi ý của đoàn truyền giáo Công giáo địa phương. Tới ngày 31 tháng 3, khi Rivière trở lại Hà Nội, quán xá tại Nam Định đã mở cửa trở lại và dân chúng tản cư trở về thành.

Chú thích

  1. ^ Bastard, 160–71; Baude de Maurceley, 157–62; de Marolles, 178–92; Duboc, 97–112; Huard, 19–26; Nicolas, 254–7; Sarrat, 337–40; Thomazi, Histoire militaire, 53–4
  2. ^ Thomazi, Conquête, 140–57
  3. ^ Bastard, 152–4; Marolles, 75–92; Nicolas, 249–52
  4. ^ Eastman, 51–7; Lung Chang, 89–95
  5. ^ Lung Chang, 90–91; Marolles, 133–44
  6. ^ Eastman, 57–65
  7. ^ A.Delvaux; sách đã dẫn
  8. ^ A.Schreiner 355; A.Delvaux 227
  9. ^ a b Antonini, Paul, tr. 272
  10. ^ Antonini, Paul, tr. 273

Tài liệu tham khảo

  • Antonini, Paul (1890). Annam, le Tonkin et l'Intervention de la France en Extrême Orient. Paris: Librairie Bloud et Barral.
  • Bastard, G., Défense de Bazeilles, suivi de dix ans après au Tonkin (Paris, 1884)
  • Baude de Maurceley, C., Le Commandant Rivière et l’expédition du Tonkin (Paris, 1884)
  • Duboc, E., Trente cinq mois de campagne en Chine, au Tonkin (Paris, 1899)
  • Eastman, L., Throne and Mandarins: China's Search for a Policy during the Sino-French Controversy (Stanford, 1984)
  • Huard, La guerre du Tonkin (Paris, 1887)
  • Lung Chang [龍章], Yueh-nan yu Chung-fa chan-cheng [越南與中法戰爭, Vietnam and the Sino-French War] (Taipei, 1993)
  • Marolles, Vice-Amiral de, La dernière campagne du Commandant Rivière (Paris, 1932)
  • Nicolas, V., Livre d'or de l'infanterie de la marine (Paris, 1891)
  • Sarrat, L., Journal d'un marsouin au Tonkin, 1883–1886 (Paris, 1887)
  • Thomazi, A., Histoire militaire de l’Indochine française (Hanoi, 1931)
  • Thomazi, A., La conquête de l'Indochine (Paris, 1934)