Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngô Lập Chi”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Lamngo (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
n nhỏ
Dòng 1: Dòng 1:
'''Ngô Lập Chi''' ([[1888]] - [[1968]]){{{{cần dẫn chứng}}, tên cũ là '''Ngô Trọng Hưng''', hiệu '''Bái Đinh''', biệt hiệu '''Hồ Hoa chủ nhân'''; là một nhà giáo, và là nhà nghiên cứu cổ văn [[Việt Nam]].
'''Ngô Lập Chi''' ([[1888]] - [[1968]]), tên cũ là '''Ngô Trọng Hưng''', hiệu '''Bái Đinh''', biệt hiệu '''Hồ Hoa chủ nhân'''; là một nhà giáo, và là nhà nghiên cứu cổ văn [[Việt Nam]].


==Tiểu sử==
==Tiểu sử==
Dòng 16: Dòng 16:
Sau năm [[1954]], ông công tác ở bộ phận phiên dịch tài liệu chữ Hán ở [[trường Đại học Tổng hợp Hà Nội]].
Sau năm [[1954]], ông công tác ở bộ phận phiên dịch tài liệu chữ Hán ở [[trường Đại học Tổng hợp Hà Nội]].


Năm [[1961]], ông về hưu trí và mất ngày 28 tháng 1 năm 1968 ([[Đinh Mùi]]){{cần dẫn chứng}} <ref>website Tri thức Việt ghi ông mất năm 1967 [http://www.coviet.vn/home/tri-thuc-viet/bai-viet/Ng%C3%B4%20L%E1%BA%ADp%20Chi].</ref> <ref>website Ngo Thuy Chuong ghi ông mất năm 1968 [http://www.vanhanhpagode.nl/ngothuychuong].</ref>
Năm [[1961]], ông về hưu trí và mất ngày [[28 tháng 1]] năm [[1968]] ([[Đinh Mùi]])<ref>Theo website ''Gia phả họ Ngô'' của Ngo Thuy Chuong [http://www.vanhanhpagode.nl/ngothuychuong]. Tuy nhiên, theo website Tri thức Việt thì ông mất năm 1967 [http://www.coviet.vn/home/tri-thuc-viet/bai-viet/Ng%C3%B4%20L%E1%BA%ADp%20Chi].</ref>




==Tác phẩm==
==Tác phẩm==
Dòng 28: Dòng 26:
==Chú thích==
==Chú thích==
{{Tham khảo}}
{{Tham khảo}}


{{thời gian sống|sinh=1888|mất=1968|tên=Ngô Lập Chi}}
{{thời gian sống|sinh=1888|mất=1968|tên=Ngô Lập Chi}}
[[Thể loại:Người Nam Định]]
[[Thể loại:Người Nam Định]]

Phiên bản lúc 18:18, ngày 15 tháng 1 năm 2014

Ngô Lập Chi (1888 - 1968), tên cũ là Ngô Trọng Hưng, hiệu Bái Đinh, biệt hiệu Hồ Hoa chủ nhân; là một nhà giáo, và là nhà nghiên cứu cổ văn Việt Nam.

Tiểu sử

Quê Ngô Lập Chi ở xã Bái Dương, huyện Nam Chân, nay là huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống thi thư, thuộc dòng dõi Chương Khánh công Ngô Từ của nhà Lê sơ, và Tiến sĩ Ngô Thế Vinh dưới triều nhà Nguyễn.

Thuở nhỏ, ông theo Nho học. Khoa thi Hương năm Kỷ Dậu (1909, năm Duy Tân thứ 3), ông đỗ Cử nhân, vào học trường Hậu bổ, rồi được bổ làm quan.

Ban đầu, ông làm Huấn đạo huyện An Lão, tỉnh Kiến An; sau chuyển sang làm trợ tá huyện Vũ Tiên (tỉnh Thái Bình), rồi về hưu trí.

Sau Cách mạng tháng Tám, năm 1946, ông làm Chủ tịch Ủy ban hành chánh huyện Nam Trực (Nam Định) cho đến năm 1947, rồi đổi sang làm Hội trưởng Hội Liên Việt tỉnh Nam Định.

Khi quân Pháp trở lại Việt Nam, và tiến đánh tỉnh Thái Bình, ông phải tạm cư ở vùng Pháp chiếm rồi lên Hà Nội, làm nghề cho đơn thuốc, dạy chữ Hán (lớp mở ở đền Ngọc Sơn) của Văn hóa hiệp hội.

Năm 1953, ông được cử thay Phó bảng Nguyễn Can Mộng dạy chữ Hán ở trường Đại học Văn khoa và Sư phạm Đông Dương ở Hà Nội.

Sau năm 1954, ông công tác ở bộ phận phiên dịch tài liệu chữ Hán ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Năm 1961, ông về hưu trí và mất ngày 28 tháng 1 năm 1968 (Đinh Mùi)[1]

Tác phẩm

Chú thích

  1. ^ Theo website Gia phả họ Ngô của Ngo Thuy Chuong [1]. Tuy nhiên, theo website Tri thức Việt thì ông mất năm 1967 [2].