Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Nghiêu Tư”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dài dòng quá mấy người ơi
Đại Việt Sử ký bản dịch để sai chỗ của dấu phẩy, khi đó trung thư xá nhân Trịnh Thiết Trường làm An phủ sứ lộ Tân Hưng Hạ
Dòng 2: Dòng 2:


== Tiểu sử ==
== Tiểu sử ==
Ông đỗ [[Trạng nguyên Việt Nam|Trạng nguyên]] khoa [[Mậu Thìn]] niên hiệu Thái Hòa thứ 6 (1448), đời [[Lê Nhân Tông]], làm quan Hàn lâm trực học sĩ, An phủ sứ lộ Tân Hưng<ref name=NhanTong />.
Ông đỗ [[Trạng nguyên Việt Nam|Trạng nguyên]] khoa [[Mậu Thìn]] niên hiệu Thái Hòa thứ 6 (1448), đời [[Lê Nhân Tông]], làm quan Hàn lâm trực học sĩ, An phủ sứ lộ Tân Hưng Thượng<ref name=NhanTong />.


Đầu năm Thiên Hưng thứ nhất (tháng 10 âm lịch năm 1459) thời [[Lê Nghi Dân]], ông được cử cùng [[Lê Cảnh Huy]], [[Nguyễn Như Đổ]], [[Hoàng Thanh]] sang [[nhà Minh]] nộp cống hằng năm và xin bỏ việc mò ngọc trai<ref name=NhanTong />. Tài liệu của Viện Hán-Nôm lại ghi là ông được cử làm Phó sứ (năm 1460) sang [[nhà Minh]] ([[Trung Quốc]]) cầu phong<ref name =HanNom /> (thụ [[phong tước|phong vương]] của nhà Minh cho vua Lê của [[Đại Việt]]) trong khi Đại Việt Sử ký Toàn thư viết rằng ''...Ngày 20, lại sai bọn Trần Phong, [[Lương Như Hộc]], [[Trần Bá Linh]] sang nhà Minh cầu phong...''<ref name=NhanTong />. Sau đó, ông được thăng lên Lại bộ [[thượng thư]] (chưởng lục bộ)<ref name =HanNom />.
Đầu năm Thiên Hưng thứ nhất (tháng 10 âm lịch năm 1459) thời [[Lê Nghi Dân]], ông được cử cùng [[Lê Cảnh Huy]], [[Nguyễn Như Đổ]], [[Hoàng Thanh]] sang [[nhà Minh]] nộp cống hằng năm và xin bỏ việc mò ngọc trai<ref name=NhanTong />. Tài liệu của Viện Hán-Nôm lại ghi là ông được cử làm Phó sứ (năm 1460) sang [[nhà Minh]] ([[Trung Quốc]]) cầu phong<ref name =HanNom /> (thụ [[phong tước|phong vương]] của nhà Minh cho vua Lê của [[Đại Việt]]) trong khi Đại Việt Sử ký Toàn thư viết rằng ''...Ngày 20, lại sai bọn Trần Phong, [[Lương Như Hộc]], [[Trần Bá Linh]] sang nhà Minh cầu phong...''<ref name=NhanTong />. Sau đó, ông được thăng lên Lại bộ [[thượng thư]] (chưởng lục bộ)<ref name =HanNom />.

Phiên bản lúc 11:56, ngày 25 tháng 10 năm 2008

Nguyễn Nghiêu Tư (? - ?), hiệu là Tùng Khê, tên tự là Quân Trù, thuở nhỏ còn có tên tục là Trư vì đẻ tháng Hợi[1], người huyện Vũ Ninh, phủ Từ Sơn[2][3]. Tài liệu của Viện Hán-Nôm còn ghi thêm là người xã Phù Lương, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc (nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh)[3]. Ông là một trạng nguyên nhà Hậu Lê[2], làm quan đến chức Thượng thư[3].

Tiểu sử

Ông đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn niên hiệu Thái Hòa thứ 6 (1448), đời Lê Nhân Tông, làm quan Hàn lâm trực học sĩ, An phủ sứ lộ Tân Hưng Thượng[2].

Đầu năm Thiên Hưng thứ nhất (tháng 10 âm lịch năm 1459) thời Lê Nghi Dân, ông được cử cùng Lê Cảnh Huy, Nguyễn Như Đổ, Hoàng Thanh sang nhà Minh nộp cống hằng năm và xin bỏ việc mò ngọc trai[2]. Tài liệu của Viện Hán-Nôm lại ghi là ông được cử làm Phó sứ (năm 1460) sang nhà Minh (Trung Quốc) cầu phong[3] (thụ phong vương của nhà Minh cho vua Lê của Đại Việt) trong khi Đại Việt Sử ký Toàn thư viết rằng ...Ngày 20, lại sai bọn Trần Phong, Lương Như Hộc, Trần Bá Linh sang nhà Minh cầu phong...[2]. Sau đó, ông được thăng lên Lại bộ thượng thư (chưởng lục bộ)[3].

Nhận xét

Đại Việt Sử ký Toàn thư có viết về ông như sau:

..Nghiêu Tư người huyện Vũ Ninh;... Nghiêu Tư từng thông dâm với mẹ vợ, bấy giờ, có người ghi vào chuồng lợn là "Phường trạng nguyên", có người hát ở đường cái rằng: "Trạng nguyên trư Nguyễn Nghiêu Trư" là chế giễu hành vi xấu xa đó...[2].

Tham khảo