Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đinh Liệt”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
n →‎Tham khảo: Alphama Tool, General fixes
Dòng 60: Dòng 60:


==Tham khảo==
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
* [[Đại Việt Sử ký Toàn thư]]
* [[Đại Việt Sử ký Toàn thư]]
* Đại Việt thông sử
* Đại Việt thông sử

Phiên bản lúc 12:19, ngày 19 tháng 7 năm 2014

Đinh Liệt (chữ Hán: 丁列; ?-1471) là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá, Việt Nam.

Gia phả họ Đinh Danh ở Thái Bình nói rằng ông là dòng dõi của Nam Việt vương Đinh Liễn con vua Đinh Tiên Hoàng.

Đinh Liệt cùng anh ruột là Đinh Lễ là cháu gọi Lê Thái Tổ bằng cậu. Ông khi còn trẻ thường đi theo cận vệ cho Lê Lợi.

Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn

Những ngày đầu khởi nghĩa Lam Sơn, ông theo Lê Lợi chiến đấu vùng núi chí Linh trải qua nhiều gian khổ.

Năm 1424, quân Lam Sơn chiếm được thành Trà Lân, sắp đánh thành Nghệ An. Các tướng Minh mang quân thuỷ bộ cùng đến. Lê Lợi chia cho Đinh Liệt 1000 quân sai đi theo đường tắt chiếm trước huyện Đỗ Gia (nay là huyện Hương Sơn). Lê Lợi nhử địch vào ổ phục kích để Đinh Liệt đánh tập hậu, quân Minh thua to.

Năm 1427, quân Lam Sơn vây Đông Quan (Hà Nội), anh ông là tướng Đinh Lễ bị tử trận. Lê Lợi bèn phong ông làm Nhập nội thiếu uý Á hầu.

Cuối năm 1427, Liễu Thăng mang viện binh sang, ông được lệnh cùng Lê Sát mang quân lên Chi Lăng, góp sức diệt địch, chém được Liễu Thăng, đánh tan đạo viện binh.

Đầu năm 1428 ông được xếp vào chức thủ quân thiết đột. Trong số những công thần theo Lê Lợi từ hội thề Lũng Nhai thì Đinh Liệt được xếp hàng đầu, phong làm Suy trung Tán trị hiệp mưu bảo chính công thần Vinh lộc đại phu tả kim ngô đại tướng quân, tước Thượng tri tự.

Công thần thời bình

Khi thăng khi giáng

Năm 1429, khi khắc biển công thần, Đinh Liệt được phong làm Đình Thượng hầu.

Năm 1432, ông được phong làm Nhập nội tư mã, tham dự triều chính.

Tháng 5 năm 1434 đời Lê Thái Tông có quân Chiêm Thành vào cướp phá, ông được lệnh lĩnh các quân Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá đánh địch. Quân Lê đi đến Hoá Châu, vua Chiêm vội rút về.

Năm 1444 đời Lê Nhân Tông, vua còn nhỏ, có người vu cáo ông, thái hậu Nguyễn Thị Anh cầm quyền nhiếp chính sai giam cả nhà ông dưới hầm. Nhờ có người trong hoàng tộc là Lê Khắc Phục và công chúa Ngọc Lan xin hộ, đến tháng 6 năm 1448 ông mới được tha ra, nhưng vợ con vẫn bị giam. Đến tháng năm 1450 gia đình ông mới được thả.

Trong niên hiệu Diên Ninh của Lê Nhân Tông (1454-1459), ông được giữ chức thái bảo.

Trọng thần thời Lê Thánh Tông

Năm 1459, anh vua Nhân Tông là Lê Nghi Dân giết vua cướp ngôi. Ông cùng Nguyễn Xí, Lê Lăng cầm đầu các tướng làm binh biến lật đổ Nghi Dân đưa hoàng tử Tư Thành lên ngôi, tức là vua Lê Thánh Tông. Tháng 6 năm 1460 ông được phong chức Khai phủ nghi đồng tam ty, Bình chương quân quốc trọng sự, Nhập nội thái phó Á quận hầu. Trong năm đó ông liên tiếp được gia phong.

Tháng 12 năm 1460, ông cùng Lê Lăng đi đánh tù trưởng họ Cầm làm loạn, được thăng lên chức thái sư phụ chính.

Năm 1465, Nguyễn Xí mất, Đinh Liệt làm quan đầu triều, từ đó thường quyết định nhiều việc lớn của triều đình, được vua và các quan lại rất tôn trọng.

Năm 1470, Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, ông làm chức Chinh lỗ tướng quân, cùng Lê Niệm (cháu nội Lê Lai) làm tiên phong đi trước, đánh chiếm kinh thành Đồ Bàn, bắt vua Chiêm là Trà Toàn.

Năm 1471, ông mất, được truy phong là Trung Mục vương. Ông là một trong những công thần khai quốc sống lâu nhất sau khi nhà Hậu Lê thành lập, sống tới tận thời Hồng Đức. Con cháu Đinh Liệt sau tiếp tục nối đời làm quan cho nhà Hậu Lê và thời Lê-Trịnh.

Theo gia phả họ Đinh Danh ở Thái Bình, Đinh Liệt còn để lại một số bài thơ nói về Vụ án Lệ Chi Viên đương thời. Ông cùng anh là Đinh Lễ đều được đặt tên phố ở trung tâm Hà Nội ngày nay.

Tưởng niệm

Phố Đinh Liệt tại Hà Nội

Ở Hà Nội, Đinh Liệt là con phố nhỏ nối từ Hàng Bạc ra Cầu Gỗ. Phố dài khoảng 175 m, trong địa phận quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Phố là đoạn tiếp của Tạ Hiện, bắt đầu từ Hàng Bạc, cắt qua Gia Ngư để đến Cầu Gỗ, thông ra hồ Hoàn Kiếm. Phố chỉ là con phố nhỏ trong khu phố cổ Hà Nội nên không có tác dụng giao thông chính, là nơi buôn bán các mặt hàng thổ cẩm và phục vụ khách du lịch. Phố được xây trên đất của hai thôn cổ là Gia Ngư và Hương Minh, đều thuộc tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương. Phố Đinh Liệt thời xưa được chia làm hai phần: đầu đi từ Hàng Bạc và đầu từ Cầu Gỗ. Cả hai đường đều dẫn vào khu dân cư xung quanh hồ Thái Cực (hồ Hàng Đào). Sau khu Pháp lấp hồ làm nhà cửa thì hai đoạn này được ghép lại với nhau làm đường, được Pháp đặt tên là Rue Od Endhal. Sau năm 1945, phố được đặt tên lại là phố Đinh Liệt, lấy tên một trong những khai quốc công thần thời Lê sơ. Phố ngày nay là điển hình của nền du lịch Việt Nam với các nhà nghỉ, khách sạn với các cửa hàng lưu niệm, bán len, chỉ.

Vợ

Bà Lương Minh Nguyệt, người làng Chuế Cầu, tỉnh Nam Định, có nhan sắc và giỏi nghề ca hát Ả đào. Trong thời gian Lê Lợi kháng Minh, bà đã mở quán rượu nổi tiếng ở gần thành Cổ Lộng (Đông Đô tức Thăng Long), cốt ý dò la tin giặc, giúp kháng chiến. Trong một cuộc tấn công thành Cổ Lộng, bà Minh Nguyệt đã cùng các cô gái tiếp viên phục rượu một số tướng Minh say mèm, và làm ám hiệu để quân Lam Sơn dưới quyền chỉ huy của tướng Lê Thạch chiếm được thành. Sau, Đinh Liệt được phong tước Quốc công, mang họ nhà vua (họ Lê), và bà là Nhất Phẩm Phu nhân. Các vua đời sau đều có sắc phong vợ chồng bà là Phúc thần. Theo tài liệu của Giáo Sư Trần Gia Phụng, bà Lương Thị Huệ có lẽ là một tên khác của bà Lương Minh Nguyệt (?), hiện có đền thờ tại huyện Thọ Xương và dân chúng còn gọi bà là Ngọc Kiều Phu nhân.

Xem thêm

Tham khảo