Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Di truyền Mendel”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 10: Dòng 10:
Do phát hiện thêm nhiều hiện tượng di truyền khác, thí dụ như hiện tượng liên kết di truyền nên hợp từ „định luật Mendel“ (mendelsche Gesetze) dùng trước đây được chuyển thành hợp từ chính xác hơn „Quy tắc Mendel“ (mendelschen Regeln) trong các công bố khoa học và sách giao khoa mới.
Do phát hiện thêm nhiều hiện tượng di truyền khác, thí dụ như hiện tượng liên kết di truyền nên hợp từ „định luật Mendel“ (mendelsche Gesetze) dùng trước đây được chuyển thành hợp từ chính xác hơn „Quy tắc Mendel“ (mendelschen Regeln) trong các công bố khoa học và sách giao khoa mới.


== Định luật đồng tính F<sub>1</sub> ==
Quy tắc Mendel thứ nhất- Quy tắc đồng dạng
Quy tắc Mendel thứ nhất- Quy tắc đồng dạng
(còn gọi là quy tắc đồng nhất hay quy tắc đồng tính) là kết quả lai hai cha mẹ (thế hệ P, Parentalgeneration) đồng hợp tử (homozygous), khác nhau về một tính trạng, một có vỏ hạt màu trắng và một có vỏ hạt màu tím ở cây đậu vườn. Các con sinh ra thuốc thế hệ này (còn gọi là thế hệ lai F1) đều có hình dạng giống nhau: vỏ hạt đều có màu tím. Nghiên cứu sáu tính trạng còn lại ông cũng nhận được kết quả tương tự. Các cây con đều đồng dạng và nhận tính trạng của một trong hai cha mẹ. Do hình dạng của các cây con ở mỗi trong bảy tính trạng đều đồng nhất nên quy tắc này được gọi là quy tắc đồng dạng hay quy tắc Mendel thứ nhất.
(còn gọi là quy tắc đồng nhất hay quy tắc đồng tính) là kết quả lai hai cha mẹ (thế hệ P, Parentalgeneration) đồng hợp tử (homozygous), khác nhau về một tính trạng, một có vỏ hạt màu trắng và một có vỏ hạt màu tím ở cây đậu vườn. Các con sinh ra thuốc thế hệ này (còn gọi là thế hệ lai F1) đều có hình dạng giống nhau: vỏ hạt đều có màu tím. Nghiên cứu sáu tính trạng còn lại ông cũng nhận được kết quả tương tự. Các cây con đều đồng dạng và nhận tính trạng của một trong hai cha mẹ. Do hình dạng của các cây con ở mỗi trong bảy tính trạng đều đồng nhất nên quy tắc này được gọi là quy tắc đồng dạng hay quy tắc Mendel thứ nhất.

Phiên bản lúc 09:03, ngày 15 tháng 9 năm 2014

Mendel đã thí nghiệm trên nhiều loại đối tượng, nhưng công phu nhất là trên đậu Hà Lan (có hoa lưỡng tính tự thụ phấn nghiêm ngặt). Ông đã trồng khoảng 37000 cây, tiến hành lai 7 cặp tính trạng thuộc 22 giống đậu trong 8 năm liền, phân tích trên một vạn cây lai và khoảng 30000 hạt. Từ đó đã xây dựng 3 định luật di truyền từ thực nghiệm (năm 1965), đặt nền móng cho di truyền học.

Bảng thống kê các tính trạng thí nghiệm của Mendel

Tổng quan

Định luật Mendel hay Quy tắc Mendel mô tả quá trình di truyền các đặc tính biểu hiện bên ngoài, được xác định bởi một gen duy nhất. Quy tắc này được đặt theo tên của người phát hiện ra chúng Gregor Mendel. Ông là người đã công bố đầu tiên kết quả thí nghiệm ở cây đậu vườn (pisum sativum) * vào năm 1866.

Các quy tắc Mendel chỉ áp dụng cho các sinh vật lưỡng bội với tế bào mầm đơn bội – chúng bao gồm hầu hết các loài động vật và thực vật. Đối với các sinh vật đa bội thể người ta có thể suy ra từ đây các quy tắc di truyền tương ứng.

Do phát hiện thêm nhiều hiện tượng di truyền khác, thí dụ như hiện tượng liên kết di truyền nên hợp từ „định luật Mendel“ (mendelsche Gesetze) dùng trước đây được chuyển thành hợp từ chính xác hơn „Quy tắc Mendel“ (mendelschen Regeln) trong các công bố khoa học và sách giao khoa mới.

Quy tắc Mendel thứ nhất- Quy tắc đồng dạng (còn gọi là quy tắc đồng nhất hay quy tắc đồng tính) là kết quả lai hai cha mẹ (thế hệ P, Parentalgeneration) đồng hợp tử (homozygous), khác nhau về một tính trạng, một có vỏ hạt màu trắng và một có vỏ hạt màu tím ở cây đậu vườn. Các con sinh ra thuốc thế hệ này (còn gọi là thế hệ lai F1) đều có hình dạng giống nhau: vỏ hạt đều có màu tím. Nghiên cứu sáu tính trạng còn lại ông cũng nhận được kết quả tương tự. Các cây con đều đồng dạng và nhận tính trạng của một trong hai cha mẹ. Do hình dạng của các cây con ở mỗi trong bảy tính trạng đều đồng nhất nên quy tắc này được gọi là quy tắc đồng dạng hay quy tắc Mendel thứ nhất.

Quy tắc Mendel thứ hai- Quy tắc phân ly Mendel muốn tìm hiểu tại sao một trong hai tính trạng của cha mẹ lại biến mất ở thế hệ F1 nên đã cho các cây lai của thế hệ này tự thụ phấn. Kết quả là ở thế hệ con của cây lai (thế hệ F2) xuất hiện trở lại tính trạng của một trong hai cha me đã biến mất ở thế hẹ F1, chia ra theo tỷ lệ 3:1 (ba phần con có tính trạng giống cây cha thì 1 phần có tính trạng giống mẹ hay ngược lại). Mendel gọi tính trạng không xuất hiện ở thế hệ F1 là tính lặn (rezessiv) và tính xuất hiện ở thế hệ F1 là tính trội (dominierend) (1)(2). Quy tắc phân chia tính trạng của cây con ở thế hệ F2 theo một tỷ lệ nhất định gọi là quy tắc Mendel thứ hai hay quy tắc phân ly. Nếu hai cha mẹ là dị hợp tử (heterozygous) thì các con sinh ra không đồng nhất mà phân ly theo một tỷ lệ 3:1 cho trường hợp di truyền trội lặn và theo tỷ lệ 1:2:1 cho trường hợp di truyền trung gian.

Định luật phân li độc lập

Bằng thí nghiệm lai hai cặp tính trạng theo phương pháp phân tích thế hệ lai, Mendel đã phát hiện ra sự di truyền độc lập của các cặp tính trạng.

Khi lai hai bố mẹ khác nhau về hai cặp tính trạng thuần chủng tương phản di truyền độc lập thì F2 có tỉ lệ kiểu hình bằng tích các tỉ lệ của các tính trạng hợp thành nó.

Chính sự phân li độc lập của các cặp tính trạng đã đưa đến sự tổ hợp lại các tính trạng của P, làm xuất hiện những kiểu hình khác P, kiểu hình này được gọi là biến dị tổ hợp

Mendel đã giải thích sự phân li độc lập của các cặp tính trạng bằng quy luật phân li độc lập. Nội dung là: "Các cặp nhân tố di truyền đã phân li độc lập trong quá trình phát sinh giao tử".

Sự phân li độc lập của các cặp nhân tố di truyền trong quá trình phát sinh giao tử và sự tổ hợp tự do của chúng trong quá trình thụ tinh là cơ chế chủ yếu tạo nên các biến dị tổ hợp có ý nghĩa quan trọng đối với chọn giống và tiến hóa.

Xem thêm

Chú thích