Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thảm sát Huế Tết Mậu Thân”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Saruman (thảo luận | đóng góp)
Douglas Pike, Don Oberdorfer, Guenter Lewy, Stanley Karnow đã được nhắc tới ở đoạn khác
Dòng 119: Dòng 119:


Ba giáo sư, Giáo sư Horst-Günther Krainick, bác sĩ Alois Alteköster, và Tiến sĩ Raimund Discher, người giảng dạy tại Đại học Y Khoa Huế, là thành viên Đại Sứ Văn Hóa CHLB Đức, cùng với bà Horst-Günther Krainick, đã bị bắt giữ bởi quân Giải phóng trong cuộc tấn công Huế của họ vào tháng Hai năm 1968. Ngày 05 Tháng Tư năm 1968, các bộ phận thi thể của giáo sư cùng với nhiều người dân Việt Nam đã được phát hiện trong ngôi mộ tập thể gần Huế.<ref name="happened"/><ref>[http://obsidianwings.blogs.com/obsidian_wings/2006/01/know_hue.html Know Hue?]</ref>
Ba giáo sư, Giáo sư Horst-Günther Krainick, bác sĩ Alois Alteköster, và Tiến sĩ Raimund Discher, người giảng dạy tại Đại học Y Khoa Huế, là thành viên Đại Sứ Văn Hóa CHLB Đức, cùng với bà Horst-Günther Krainick, đã bị bắt giữ bởi quân Giải phóng trong cuộc tấn công Huế của họ vào tháng Hai năm 1968. Ngày 05 Tháng Tư năm 1968, các bộ phận thi thể của giáo sư cùng với nhiều người dân Việt Nam đã được phát hiện trong ngôi mộ tập thể gần Huế.<ref name="happened"/><ref>[http://obsidianwings.blogs.com/obsidian_wings/2006/01/know_hue.html Know Hue?]</ref>

Ngược lại nhiều soạn giả và phóng viên như Stephen Hosmer (''Viet Cong Repression and Its Implications for the Future'', 1970); Peter Braestrup (phóng viên báo ''[[Washington Post]]'' viết cuốn ''Big Story'', 1977); Barbara Tuchman (''The March of Folly'', 1984); Loren Baritz (''Backfire'', 1985)<ref>[http://www.nytimes.com/1986/02/23/books/l-documenting-a-war-168686.html "Documenting a War"]</ref> và Uwe Siemon-Netto (Springer Foreign News Service) tin rằng quân Giải phóng thực hiện cuộc tàn sát. Siemon-Netto cũng viết thêm rằng những thi thể bị trói tay là chứng minh họ không chết vì bom mìn mà đã bị bắn giết với mục đích thủ tiêu chứ không phải vì lạc đạn.<ref>Siemon-Netto, Uwe. ''Đức, A Reporter's Love for a Wounded People''. Copy Express, 2013. tr 241-2.</ref>


Một nhân chứng người Việt ở Huế, chị Nguyễn Thị Hoa, thì cho biết: ''"Bắt đầu là chúng nó (quân Mỹ) dùng phi pháo. Chúng dội pháo vào khu vực chúng tôi sinh sống, san bằng nhà cửa, cây cối. Chúng bắn pháo vào nhà những khu vực quanh đó. Những nhà này bán xăng dầu nên khi pháo bắn thì cháy trụi. Tất cả người già, trẻ nhỏ, phụ nữ lánh nạn ở đây đều bị thiêu sống."''<ref>[http://www.youtube.com/watch?v=qvV7KqT6eSg&list=UUmUIIHKrLJZtNJyfIk5uBKw&index=46 Vietnam: A Television History." PBS network produce by WGBH Boston, in cooperation with Central Independent Television/ United Kingdom and Antenne–2/France, and in association with LRE Production. Tập 7]</ref>
Một nhân chứng người Việt ở Huế, chị Nguyễn Thị Hoa, thì cho biết: ''"Bắt đầu là chúng nó (quân Mỹ) dùng phi pháo. Chúng dội pháo vào khu vực chúng tôi sinh sống, san bằng nhà cửa, cây cối. Chúng bắn pháo vào nhà những khu vực quanh đó. Những nhà này bán xăng dầu nên khi pháo bắn thì cháy trụi. Tất cả người già, trẻ nhỏ, phụ nữ lánh nạn ở đây đều bị thiêu sống."''<ref>[http://www.youtube.com/watch?v=qvV7KqT6eSg&list=UUmUIIHKrLJZtNJyfIk5uBKw&index=46 Vietnam: A Television History." PBS network produce by WGBH Boston, in cooperation with Central Independent Television/ United Kingdom and Antenne–2/France, and in association with LRE Production. Tập 7]</ref>
Dòng 125: Dòng 127:


Nhà sử học [[David Hunt]] cho rằng các tài liệu của Douglas Pike về vụ thảm sát là một trong các chính sách của chính phủ Mỹ, ''"về tất cả các phương diện, hoàn toàn là nhằm tuyên truyền"''. Năm 1988, Douglas Pike nói rằng chính ông ta trước đó ''"đã tham gia vào một nỗ lực có chủ đích nhằm làm mất uy tín của quân Giải phóng"''.<ref>{{chú thích sách|last=Laderman|first=Scott|title=Tours of Vietnam: War, Travel Guides, and Memory|date=January 16, 2009|publisher=Duke University Press Books|location=Durham, NC|isbn=978-0822344148|page=90|url=http://books.google.com.vn/books?id=zzXtbyYXu7cC&pg=PA94&dq=marilyn+young+revolutionary+administration&hl=vi&sa=X&ei=-rNPU7fGJOWRiQfa7IHYDQ&redir_esc=y#v=onepage&q=marilyn%20young%20revolutionary%20administration&f=false}}</ref>
Nhà sử học [[David Hunt]] cho rằng các tài liệu của Douglas Pike về vụ thảm sát là một trong các chính sách của chính phủ Mỹ, ''"về tất cả các phương diện, hoàn toàn là nhằm tuyên truyền"''. Năm 1988, Douglas Pike nói rằng chính ông ta trước đó ''"đã tham gia vào một nỗ lực có chủ đích nhằm làm mất uy tín của quân Giải phóng"''.<ref>{{chú thích sách|last=Laderman|first=Scott|title=Tours of Vietnam: War, Travel Guides, and Memory|date=January 16, 2009|publisher=Duke University Press Books|location=Durham, NC|isbn=978-0822344148|page=90|url=http://books.google.com.vn/books?id=zzXtbyYXu7cC&pg=PA94&dq=marilyn+young+revolutionary+administration&hl=vi&sa=X&ei=-rNPU7fGJOWRiQfa7IHYDQ&redir_esc=y#v=onepage&q=marilyn%20young%20revolutionary%20administration&f=false}}</ref>

Ngược lại nhiều soạn giả và phóng viên như Stephen Hosmer (''Viet Cong Repression and Its Implications for the Future'', 1970); Douglas Pike (''The Viet-Cong Strategy of Terror'', 1970); Don Oberdorfer (''Tet!'', 1971); Peter Braestrup (phóng viên báo ''[[Washington Post]]'' viết cuốn ''Big Story'', 1977); Guenter Lewy (''America in Vietnam'', 1978); Stanley Karnow (''Vietnam'', 1983); Barbara Tuchman (''The March of Folly'', 1984); Loren Baritz (''Backfire'', 1985)<ref>[http://www.nytimes.com/1986/02/23/books/l-documenting-a-war-168686.html "Documenting a War"]</ref> và Uwe Siemon-Netto (Springer Foreign News Service) đều cho rằng quân Cộng sản thực hiện cuộc tán sát. Siemon-Netto cũng viết thêm rằng những thi thể bị trói tay là chứng minh họ không chết vì bom mìn mà đã bị bắn giết với mục đích thủ tiêu chứ không phải vì lạc đạn.<ref>Siemon-Netto, Uwe. ''Đức, A Reporter's Love for a Wounded People''. Copy Express, 2013. tr 241-2.</ref>


==Chú thích==
==Chú thích==

Phiên bản lúc 10:17, ngày 19 tháng 9 năm 2014

Cải táng các thi hài khai quật trong các hố chôn tập thể sau trận Tết Mậu Thân

Thảm sát tại Huế Tết Mậu Thân (tiếng Anh: Hue massacre) là tên gọi một sự kiện trong Chiến tranh Việt Nam khi phát hiện nhiều ngôi mộ tập thể chôn tử thi trong chiến trận Huế. Việc phát hiện hố chôn xảy ra khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân và đóng ở Huế một tháng, sau đó bị triệt thoái trước sự phản công của Quân lực Việt Nam Cộng hòaQuân đội Hoa Kỳ.[1] Cho đến nay, tài liệu từ cả phía Việt Nam và Mỹ vẫn quy trách nhiệm cho nhau về nguyên nhân và tính xác thực của sự kiện này.

Theo nhà phân tích về các chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ Gareth Porter, đây là âm mưu Việt Nam Cộng hòa (bắt nguồn từ báo cáo của Tiểu đoàn Tâm lý chiến số 10) và Mỹ dựng các hố chôn tập thể là chứng cứ để kết luận Quân giải phóng miền Nam đã thực hiện cuộc thanh toán quy mô lớn ở Huế và vùng phụ cận trong 4 tuần đóng quân[2]. Nguồn khác, trong đó có nhóm phản chiến thì khẳng định rằng số lượng và hoàn cảnh của những người bị giết đã bị khuếch đại và ngụy tạo để phục vụ mục đích tuyên truyền trong chiến tranh. Nguồn từ phía quân Giải phóng thì ghi nhận họ đã chôn nhiều thường dân chết do hỏa lực hạng nặng của Mỹ cùng với binh sĩ tử trận của chính họ.[3][4][5]

Bối cảnh

Sáng sớm ngày 31 tháng 1 năm 1968, trong dịp Tết Nguyên Đán, Quân đội Nhân dân Việt NamQuân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng lúc tấn công bất thình lình tại nhiều thành phố và địa phương trên miền Nam Việt Nam - trong đó có Sài Gòn và Huế. Sau các thành công quân sự ban đầu, họ bị đối phương áp đảo và đẩy lui khắp nơi, trừ Huế. Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân tuy được xem là một thất bại chiến thuật nhưng lại là một chiến thắng có tầm vóc lớn về chiến lược.

Với mục đích giành giật chủ quyền tại Huế, trận chiến 28 ngày giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với Quân đội Hoa KỳQuân lực Việt Nam Cộng hòa đã diễn ra và kết quả là 40% thành phố bị phá hủy, 116.000 người mất nhà ở. Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa chịu khoảng 4.400 lính thương vong, trong khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng tổn thất trên 4.000 quân. Cũng trong cuộc tái chiếm này, quân đội Mỹ đã sử dụng tối đa vũ khí hạng nặng như bom napalmsúng không giật cỡ lớn. Trong số 17.134 ngôi nhà tại Huế, 9.776 bị phá hủy hoàn toàn, 3169 bị hư hỏng nặng; số thường dân thiệt mạng theo ước tính đầu tiên của chính phủ Việt Nam Cộng hòa là 3.776 người; Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố họ đã chôn cất rất nhiều nạn nhân do bom đạn tại các khu mộ tập thể cùng với binh sĩ tử trận của chính họ[5].

Số liệu về các hố chôn tập thể

Sau sự kiện Tết Mậu Thân khoảng một tháng, một số lượng lớn các ngôi mộ tập thể của những người đã chết tại Huế đã dần được tìm thấy. Số liệu từ các nguồn khác nhau có sự không thống nhất.

Theo báo cáo tổng kết của Douglas Pike[6], lúc bấy giờ là nhân viên hành chính ngoại giao của cơ quan thông tin Hoa Kỳ, năm 1970:

"Câu chuyện (về Huế) chưa chấm dứt. Nếu ước đoán của giới chức Huế được coi như gần đúng, khoảng 2.000 người vẫn còn mất tích. Tổng kết về người chết và mất tích như sau:
  • Tổng số dân sự tử vong: 7.600 - chết lẫn mất tích
  • Chiến trường: - 1.900 bị thương vì chiến cuộc; 944 thường dân chết vì chiến cuộc
  • Nạn nhân của những vụ giết tập thể:
1.173 - số tử thi tìm trong đợt đầu sau cuộc chiến, 1968
  809 - số tử thi tìm trong đợt nhì, kể cả tìm thấy ở đụn cát, tháng 3-7 năm 1969
  428 - số tử thi tìm trong đợt thứ ba, trong khe Đá Mài (khu Nam Hoa) - tháng 9 năm 1969
  300 - số tử thi tìm trong đợt thứ tư, khu Phu Thu, tháng 11 năm 1969
  100 - số tử thi tìm thấy các nơi trong năm 1969
1.946 - mất tích (tính đến năm 1970)"

Theo soạn giả Matthew White ghi lại trong Atrocities: The 100 Deadliest Episodes in Human History (Tàn khốc: 100 sự kiện tử vong cực cao trong lịch sử nhân loại) thì vụ thảm sát ở Huế năm 1968 được ông ghi nhận trong mục về chiến tranh Việt Nam. Ông trích dẫn từ các nguồn cho rằng "có 2.800 người bị giết và 3.000 người mất tích do lực lượng cộng sản thực hiện".[7]

Theo Gareth Porter[8], một học giả Mỹ, các ước lượng ban đầu của Bộ Di dân và An sinh Xã hội Việt Nam Cộng hòa, số dân thường thiệt mạng do giao tranh và bom pháo là 3.776, trên tổng số dân thường bị thương, chết hoặc mất tích là 6.700 người[9], chứ không phải các con số 944 và 7.600 do Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đưa ra[10]. (Các con số 944 và 7.600 này đã được Pike Douglas dùng trong thống kê của mình.)

Về các con số cụ thể tại các địa điểm khai quật, Gareth Porter[8] viết:

"...tại địa điểm trường trung học Gia Hội, báo cáo chính thức của Mỹ, dựa trên thông tin cung cấp bởi Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10, đưa ra tổng số 22 mộ tập thể và 200 tử thi, với bình quân 9 tử thi mỗi mộ. Nhưng khi Steward Harris [phóng viên Thời báo Luân Đôn] được đưa đến địa điểm đó, người sĩ quan Việt Nam hộ tống nói với anh ta rằng mỗi ngôi mộ trong số 22 ngôi có từ 3 đến 7 xác, cho ra tổng trong khoảng từ 66 đến 150. Cũng khoảng trong thời gian đó, Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 xuất bản một cuốn sách nhỏ dành cho người đọc Việt Nam, trong đó nói rằng tại trường học có 14 mộ (chứ không phải 22), con số này còn làm giảm tổng số hơn nữa."

Cũng theo Gareth Porter, Alje Vennema[11], một bác sỹ làm việc cho một đội y tế Canada tại bệnh viện Quảng Ngãi và đã tình cờ có mặt tại Bệnh viện Huế trong thời gian xảy ra sự kiện Tết Mậu Thân, nói tổng số tử thi tại bốn địa điểm chính được phát hiện ngay sau Tết là 68, chứ không phải con số 477 như đã được tuyên bố chính thức.

Các quan điểm

Có nhiều quan điểm trái ngược nhau về sự thật vụ Thảm sát Huế Tết Mậu Thân.

Thành viên Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

Trương Như Tảng

Theo hồi ký của Trương Như Tảng (cựu Bộ trưởng Tư pháp Cộng hòa miền Nam Việt Nam, về sau ly khai chính phủ và vượt biên sang sống lưu vong ở Pháp), thì trong khi đóng quân tại Huế, một số lớn người đã bị xử tử vì thuộc thành phần phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa (viên chức, cảnh sát, sĩ quan, chính trị gia, địa phương quân...) nhưng cũng có người bị giết mặc dù không tham gia chiến trận. Ông dẫn lời "một người bạn" rằng do kỷ luật kém ở một số đơn vị, một số thường dân cũng nhân dịp hỗn loạn để trả thù nhau nên đã có những vụ giết hại vô cớ.[12] Mark Woodruff ghi rằng có một bản báo cáo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bắt được ngày 25 tháng 4 năm 1968 ghi đã "loại khỏi vòng chiến đấu 1.892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát, 790 tên ác ôn, sáu đại uý, 1 trung uý, 20 thiếu uý và nhiều sĩ quan trừ bị…" trong trận đánh ở Huế.[13]

Hoàng Phủ Ngọc Tường

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường là người viết lời hiệu triệu kêu gọi nhân dân Huế nổi dậy, ông bị đối phương coi là 1 những người trực tiếp chỉ đạo của "vụ thảm sát". Tuy nhiên, ông khẳng định: trong thời gian diễn ra trận đánh, ông và các cán bộ khác trú tại Sở chỉ huy tiền phương tại phía tây Huế chứ không hề vào thành. Nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân, cựu chiến binh quân Giải phóng, cũng khẳng định: Suốt thời gian chiến dịch diễn ra, Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn ở tại địa đạo Khe Trái trong vùng núi phía tây huyện Hương Trà chứ không hề bước chân về chiến trường Huế, tất cả những "thông tin" nói Hoàng Phủ Ngọc Tường làm việc này việc nọ ở Huế trong những ngày tết Mậu Thân 1968 đều là bịa đặt.

Tuy nhiên, trong cuộc phỏng vấn với đài PBS năm 1982, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng mình có mặt tại Huế trong thời gian đó. Ông nói[14]:

Năm 2008, nhân kỷ niệm 40 năm trận đánh, Hoàng Phủ Ngọc Tường cho biết thêm[3]:

Lê Minh

Lê Minh, Tư lệnh chiến dịch toàn Khu Trị Thiên Huế đồng thời là Bí thư Thành ủy Huế trong Tết Mậu Thân, viết lại trong hồi ký xuất bản năm 1988[15][16]:

Lê Phong Lan

Đạo diễn Lê Phong Lan đã bỏ 10 năm để tìm kiếm, gặp gỡ phỏng vấn để làm 12 tập phim tài liệu về chiến dịch Mậu Thân năm 1968. Lý do quan trọng thôi thúc đạo diễn Lê Phong Lan thực hiện bộ phim là sau khi trò chuyện với thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn, ông nói: "Suốt một thời gian dài, đã có những thông tin sai về sự kiện Mậu Thân 1968. Trong khi chúng ta lại không hề lên tiếng"[4]

Bà đã gặp gỡ cả những người lính và cả những người chỉ huy ở cả hai chiến tuyến. Ở cấp chỉ huy, ở cấp lính, mỗi người đều có cái nhìn khác nhau. Và với những gì tìm được, bà cho biết: "Tôi đã gặp những nhà báo Mỹ, những người lính bên kia chiến tuyến, họ đã nói, tất cả những thông tin về vụ thảm sát năm 1968 tại Huế chỉ là sự vu cáo của Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa đổ lên đầu Quân Giải phóng miền Nam. Để khỏa lấp cho sự thất bại nặng nề, phía Mỹ và Việt Nam cộng hòa đã phát động những tin đồn nhảm gây nhiễu loạn như một cuộc chiến tranh tâm lý, và nó đã kéo dài trong một thời gian. Nhưng sự thật là sự thật. Chiến dịch Mậu Thân trải qua thời gian càng khẳng định là bản anh hùng ca vĩ đại của quân dân Việt Nam".[17]

Trong phim Mậu Thân 1968, đoàn làm phim đã phỏng vấn ông Lê Khả Phiêu - người chỉ huy một Trung đoàn trong trận Mậu Thân 1968 tại Huế, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, nhà sử học Mỹ Stanley Karnow, cựu phóng viên tờ Washington Post là Don Lux, giáo sư sử học Larry Berman, và cả những người lính từ hai phía. Những dẫn chứng lịch sử cho thấy thông tin bị làm méo mó, cái gọi là "cuộc thảm sát" chỉ là đòn tâm lý chiến mà Mỹ dựng lên, thực tế bom Mỹ đã làm nhiều thường dân chết lẫn lộn cùng với quân lính 2 bên. Vào thời điểm đó, một số hãng thông tấn nước ngoài và các nhà báo độc lập đã tìm hiểu và xác định không tìm thấy hố chôn người tập thể như phía Việt Nam Cộng hòa tuyên bố.[4] Điều này đặt câu hỏi về việc tại sao Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa sau khi tái chiếm được Huế đã không cho các phóng viên tới hiện trường để điều tra viết bài về sự kiện chấn động này, trong khi nếu sự việc có thật thì lẽ ra họ phải tận dụng vì đây sẽ là cơ hội tuyên truyền rất tốt cho họ.[cần dẫn nguồn]

Bùi Tín

Bùi Tín, một người bất đồng chính kiến, trong hồi ký về giai đoạn còn ở Việt Nam, ông kể rằng mình đã hỏi nhiều sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào trận đánh ở Huế.[18] Ông đi đến kết luận[18][19]:

Douglas Pike

Theo Pike:[6] thì có 3 giai đoạn đưa đến những vụ xử tử.

Nhiều tác giả sử dụng báo cáo của Pike, trong khi nhiều người khác thì phủ nhận, cho rằng đây là một chiêu bài tuyên truyền của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa để tạo hỗ trợ cho sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Việt Nam.[5] Trong những thời gian đầu cuộc chiến, nhiều phóng viên chiến trường phải viết phóng sự tuân theo một quy định áp đặt từ chính phủ Hoa Kỳ.[5]

Marilyn B. Young

Marilyn B. Young trong sách tựa đề The Vietnam Wars, 1945-1990[20][cần số trang] ghi lại:

"Trong những ngày đầu của cuộc chiếm đóng quả thực có những vụ xử tử công khai tại chỗ... khi trận chiến gần kết thúc bởi những cuộc pháo kích của Mỹ, lính miền Bắc trên đường rút lui xử tử những người họ đang giam giữ thay vì thả họ ra hay cố giữ lại làm tù binh - với con số người chết vào khoảng 300-400, không nhiều như chính phủ Sài gòn và Washington công bố, nhưng cũng đủ để tạo những câu hỏi tang thương cho những người sống sót ở Huế..."

Gareth Porter

Về sau có khảo cứu của Gareth Porter[8] về vụ thảm sát Huế, trong đó, ông chỉ trích những phóng đại tuyên truyền từ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa. Ông nói các thông tin về cái gọi là đàn áp tôn giáo là thiếu chính xác[21] Porter cũng nêu là tại khu Gia Hội, nơi quân Giải phóng đã kiểm soát trong 26 ngày, một linh mục Công giáo nói với Len Ackland rằng không có một ai trong số các giáo dân của ông bị hại[8].

Ông đã nêu ra các nguồn gốc không xác thực của những thông tin về vụ "thảm sát" khi chính quyền Sài Gòn không cho phép bất kỳ phóng viên nào xem các địa điểm có mộ hay các tử thi[22]; sự không rõ ràng trong việc điều tra tại thực địa các ngôi mộ tập thể[23]; những mâu thuẫn trong các báo cáo về số lượng tử thi tìm thấy; những mâu thuẫn với kết quả tìm hiểu của một bác sỹ y khoa làm việc tại Huế lúc đó; một số chi tiết đáng chú ý xung quanh các cuộc khai quật vào năm 1969; những mâu thuẫn giữa bài viết của Douglas Pike với các nguồn thông tin khác, rằng "Bộ trưởng Y tế Trần Lưu Y, sau khi đi thăm các địa điểm chôn cất vào tháng Tư năm 1969, đã thông báo với Phó Tỉnh trưởng Thừa Thiên rằng các tử thi có thể là của những người lính Mặt trận Dân tộc Giải phóng bị chết trong các trận giao tranh"[24]; những mâu thuẫn trong các lời khai của "người làm chứng" cho vụ thảm sát[25]; và thêm vào đó là kết quả của những trận bom Mỹ tại Huế đã khiến nhiều thường dân thiệt mạng.[26].

Gareth Porter cho biết rằng một người bác sỹ có mặt tại Huế vào thời điểm tìm thấy các mộ chôn, Alje Vennema[11], viết rằng đối với các địa điểm trong khu lăng vua, hầu hết các tử thi có dấu vết của quân phục. Vennema đã hỏi chuyện các dân làng gần đó, họ nói rằng trong các ngày 21 đến 26 tháng 2 khu vực trung gian đã bị bom và pháo dữ dội. Và, trái với các tuyên bố của chính phủ rằng nhiều nạn nhân đã bị chôn sống tại đó, Vennema nói rằng tất cả các tử thi đều có các vết thương.

Trong kết luận của bài viết, Gareth Porter đồng ý rằng có những vụ xử tử, giết người tại Huế trong giai đoạn đóng quân; tuy nhiên không có bằng chứng cụ thể về nguyên nhân của những cái chết.

"Các bằng chứng có được -- không phải từ nguồn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, mà từ nguồn chính thức của Hoa KỳViệt Nam Cộng Hòa và từ các quan sát viên độc lập -- cho thấy rằng câu chuyện chính thức về một cuộc tàn sát bừa bãi đối với những người được cho là không thích hợp với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là hoàn toàn bịa đặt. Không chỉ số lượng các thi thể được tìm thấy trong và xung quanh Huế đáng nghi vấn, mà quan trọng hơn, nguyên do của các cái chết có vẻ như là bị chuyển từ chính các trận đánh quân sự sang việc xử tử của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Và tường trình chi tiết nhất "có thẩm quyền" mà các chính phủ Mỹ hay Việt Nam Cộng hòa đưa ra về sự việc được cho là vụ thảm sát này đã không đứng vững trước các thẩm định."[27].

Noam Chomsky và Edward S. Herman

Noam Chomsky, nhà ngôn ngữ học người Mỹ, và Edward S. Herman, nhà kinh tế học người Mỹ, trong "Tài liệu về Kinh tế và Nhân quyền" tập 1, cho rằng vụ việc đã bị mô tả một cách sai lệch, bị thổi phồng, bị tô vẽ nhằm mục đích tuyên truyền. "Đó là những thường dân bị chết do những trận bom pháo Mỹ san bằng TP Huế. Rồi sau đó khi Mỹ và VNCH phản kích trả thù lại thời kỳ hậu Mậu Thân cũng giết chóc rất nhiều. Thứ nữa là lực lượng quân Giải phóng đã tử trận trong lúc chiến đấu. Tất cả đều là người Việt với nhau và Mỹ gộp vô hết. Tất cả những điều đó được Mỹ dựng thành một vụ thảm sát tưởng tượng"[28] Các căn cứ được nêu ra có thể tóm lược như sau[29]:

Những tài liệu căn bản cho câu chuyện này gồm một bản báo cáo do chính phủ Sài Gòn đưa ra vào tháng 4/1968, một "tài liệu bắt được" và đã phổ biến trong công chúng của phái đoàn Hoa Kỳ vào tháng 11/1969, và một bài phân tích dài xuất bản năm 1970 của một nhân viên Phòng Thông tin "USIS" (Tâm lý chiến) là Douglas Pike. Cả hai bản báo cáo của Sài gòn và của Pike đã gây nên một sự nghi ngờ về nguồn tin, giọng điệu và vai trò của chúng trong một chiến dịch tuyên truyền mở rộng nhằm làm giảm đi ảnh hưởng của vụ thảm sát Mỹ Lai. Trong một phân tích cẩn thận về "tài liệu bắt được", Gareth Porter cho thấy bộ máy tuyên truyền của Mỹ đã cố tình nhập nhằng từ ngữ để đánh lừa. Cụm từ "loại bỏ" đã bị diễn giải thành "giết chết", mặc dù trong tiếng Việt từ này mang ý nghĩa rất rộng (giết chết, bị thương, bắt sống, đầu hàng hoặc bỏ trốn). Nhưng quan trọng hơn là những tài liệu này không được viết ngay khi sự việc diễn ra mà chỉ được viết ra nhiều tháng sau đó, và đã không có sự điều tra hay nghiên cứu tỉ mỉ để xác thực. Porter báo cáo rằng: không có tài liệu nào cho thấy rằng quân Giải phóng có ý định tàn sát dân thường hoặc ngay cả các chỉ huy của đối phương ở Huế. Chiến lược chung của quân Giải phóng chuyển tải trong các tài liệu đã bị bóp méo bởi Douglas Pike và cộng sự của mình.

Bằng chứng về các ngôi mộ tập thể cũng rất mơ hồ. Các con số này nhằm che lấp thực tế là đã có rất nhiều thường dân bị thiệt mạng khi quân Mỹ chiếm lại thành phố Huế bởi việc sử dụng hỏa lực mạnh một cách bừa bãi. Sau trận đánh 25 ngày, trong số 17.134 nhà thì 9.776 ngôi nhà đã hoàn toàn bị phá hủy và 3.169 ngôi nhà bị thiệt hại khá trầm trọng bởi bom đạn của Mỹ. David Douglas Duncan, phóng viên chiến trường, mô tả đó là "một sự nỗ lực dốc hết sức để loại bỏ bất cứ một kẻ địch nào. Tâm trí tôi bấn loạn trước cuộc tàn sát." Robert Shaplen viết về khi đó "Không có gì trong cuộc chiến ở Triều Tiên và Việt Nam khi nói về sự tàn phá, mà tôi thấy kinh hoàng bằng những điều tôi thấy được ở Huế năm ấy". Townsend Hoopes, người có quyền truy cập đặc biệt thông tin mật Bộ Quốc phòng, nói rằng các nỗ lực tái chiếm Huế đã khiến 80% các tòa nhà trở thành đống đổ nát, và rằng "trong đống đổ nát, khoảng 2.000 dân thường đã chết...". Quân Giải phóng cũng cho biết họ đã chôn cất khoảng 2000 nạn nhân bị oanh tạc trong các ngôi mộ tập thể cùng binh sĩ tử trận của chính họ[30].

Một thông tin thú vị là việc các nhà báo độc lập không bao giờ được phép có mặt tại những cuộc khai quật mộ tập thể. Sự ước lượng về những nạn nhân của thảm sát tại Huế đã tăng vọt lên một cách đáng kể để đáp ứng lại với những nhu cầu chính trị bất ngờ đột xuất của chính quyền Nixon. Không có nhà báo phương Tây nào đã được dẫn đến những mồ chôn tập thể khi các hố chôn đó được khai quật cả. Ngược lại một nhà nhiếp ảnh người Pháp, Marc Riboud, đã nhiều lần bị từ chối yêu cầu muốn đi xem một trong số địa điểm nơi mà ông tỉnh trưởng tuyên bố "có 300 cán bộ chính phủ đã bị Việt cộng giết". Người tổ chức AFSC tại Huế cũng không thể khẳng định bản báo cáo về những hố chôn tập thể, những nhà báo độc lập không hề được phép có mặt tại hiện trường và họ rất khó xác định chỗ chính xác nơi những hố chôn tập thể mặc dù đã nhiều lần yêu cầu được đến xem.

Một giả thuyết khác ít được nhắc tới, rằng những nạn nhân ở Huế là do quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trả thù khi tái chiếm thành phố. Nhiều người ủng hộ Mặt trận dân tộc đã lộ dạng trong suốt cuộc tổng tấn công, và đã hợp tác với chính quyền địa phương của những người cách mạng ở Huế, hoặc bầy tỏ sự ủng hộ của họ đối với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam. Khi quân giải phóng rút đi, nhiều cán bộ và những người ủng hộ quân Giải phóng kẹt lại và họ trở thành nạn nhân của những sự trả thù. Trong một bài mô tả, một nhà báo người Ý Oriana Fallaci, trích dẫn lời một linh mục Pháp ở Huế đã kết luận rằng: "Tất cả có khoảng 1100 người bị giết (sau ngày quân Mỹ tái chiếm thành phố). Hầu hết là sinh viên, giảng viên, giáo sĩ. Những trí thức và người dân Huế đã không bao giờ che giấu cảm tình của họ với Mặt trận Dân tộc Giải phóng"[31].

Hai ông kết luận: Trong bất kỳ trường hợp nào, tình trạng rất lộn xộn về các sự kiện và bằng chứng, cộng với các "bằng chứng" không thuyết phục, ít ra cũng có thể nói rằng việc "tắm máu" tại Huế hiển nhiên đã được phóng đại. Nó có vẻ khá rõ ràng rằng bom đạn Mỹ nhằm "bảo vệ" Việt Nam đã giết nhiều thường dân hơn là do quân Giải phóng. Những ví dụ này, tất nhiên, không chỉ gợi lên một thực tế rằng các báo cáo chính thức của chính quyền Sài Gòn là dối trá và lừa bịp, và trong một số trường hợp đã được chuyển thành những câu chuyện hoang đường không có bằng chứng xác thực.

Các nguồn khác

Nhà báo Italy là Oriana Fallaci trong bút ký cho biết khoảng 1.100 người đã bị giết khi quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân Mỹ tái chiếm Huế. Nhà sử học Stanley Karnow cho rằng đã có nhiều thường dân bị xử tử bởi quân Việt Nam Cộng hòa và thi thể của họ đã bị chôn trong các hố tập thể[32]

Năm 1969, phóng viên Don Oberdorfer[33][cần số trang] sang ở Huế 5 ngày với Paul Vogle, giáo sư dạy Anh Văn người Mỹ tại Đại học Huế, và phỏng vấn nhiều nhân chứng trong thời gian Huế bị quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đóng giữ. Năm 1971, trong cuốn sách "Tết!", Don Oberdorfer kể về trường hợp Phạm Văn Tường, một người gác cổng bán thời gian cho các văn phòng thông tin chính phủ Huế, người đã nằm trong danh sách quân Giải phóng gọi là "phản động", đã bị bắt khi ẩn náu cùng gia đình của mình. Don Oberdorfer viết rằng ông ta với con gái 3 tuổi, con trai 5 tuổi và 2 cháu trai, tất cả họ bị bắn chết ngay lập tức, bỏ lại xác trên đường phố để gia đình ông ta chứng kiến.[34] Tuy không thể chứng minh bằng nguồn tin nào khác, Oberdorfer báo cáo rằng hầu hết những người nam trên 15 tuổi trốn tránh trong một nhà thờ khu Phú Cam đều bị đem đi và bắn chết. Khi Oberdorfer phỏng vấn Hồ Tý - một chỉ huy Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc tổng tấn công 1968 đã đào ngũ - ông này cho biết Đảng Cộng sản Việt Nam có lưu ý đặc biệt về khu Công giáo Phú Cam.[33] Don Oberdorfer cũng dẫn một số nguồn tin thông báo rằng có những "đội trả thù" do Việt Nam Cộng hòa lập ra, chuyên săn lùng và xử tử những thường dân đã ủng hộ quân Giải phóng khi họ đóng ở Huế.[35]

Nguyễn Công Minh, con gái của Phó Thị trưởng thành phố Huế vào thời điểm đó, nói rằng cha cô, sắp về hưu, đã bị bắt tại nhà riêng khởi đầu cuộc tấn công chiếm đóng của người Cộng Sản. Sau khi ông nói với họ rằng ông là Phó Thị trưởng thành phố Huế sẽ được cho nghỉ hưu trong năm sau (1969), ông được lệnh phải trình diện ở khu cải tạo. Hai ngày đầu, ông được cho về nhà sau khi đến khai báo, đến ngày thứ 3 thì ông được yêu cầu đóng gói quần áo và thực phẩm để tới khu trại trong 10 ngày. Ông không bao giờ được nhìn thấy một lần nữa, cũng không tìm được hài cốt của ông. Cô kể lại rằng vào mùa hè năm 1969, khi tìm kiếm thi thể của cha cô (việc tìm kiếm do một người Cộng Sản trình diện chiêu hồi chỉ dẫn - theo lời ông này thì những nạn nhân bị chôn sống), cô đã chứng kiến ​​7 thi thể trong một ngôi mộ đã được tìm thấy với hai tay bị trói thúc ké sau lưng, tư thế co quắp và hộp sọ đã bị vỡ. Nguyễn Công Minh ước tính khoảng 250 thi thể được tìm thấy trong 1 tháng tìm kiếm trong 8 hố chôn tập thể.[36]

Ba giáo sư, Giáo sư Horst-Günther Krainick, bác sĩ Alois Alteköster, và Tiến sĩ Raimund Discher, người giảng dạy tại Đại học Y Khoa Huế, là thành viên Đại Sứ Văn Hóa CHLB Đức, cùng với bà Horst-Günther Krainick, đã bị bắt giữ bởi quân Giải phóng trong cuộc tấn công Huế của họ vào tháng Hai năm 1968. Ngày 05 Tháng Tư năm 1968, các bộ phận thi thể của giáo sư cùng với nhiều người dân Việt Nam đã được phát hiện trong ngôi mộ tập thể gần Huế.[34][37]

Ngược lại nhiều soạn giả và phóng viên như Stephen Hosmer (Viet Cong Repression and Its Implications for the Future, 1970); Peter Braestrup (phóng viên báo Washington Post viết cuốn Big Story, 1977); Barbara Tuchman (The March of Folly, 1984); Loren Baritz (Backfire, 1985)[38] và Uwe Siemon-Netto (Springer Foreign News Service) tin rằng quân Giải phóng thực hiện cuộc tàn sát. Siemon-Netto cũng viết thêm rằng những thi thể bị trói tay là chứng minh họ không chết vì bom mìn mà đã bị bắn giết với mục đích thủ tiêu chứ không phải vì lạc đạn.[39]

Một nhân chứng người Việt ở Huế, chị Nguyễn Thị Hoa, thì cho biết: "Bắt đầu là chúng nó (quân Mỹ) dùng phi pháo. Chúng dội pháo vào khu vực chúng tôi sinh sống, san bằng nhà cửa, cây cối. Chúng bắn pháo vào nhà những khu vực quanh đó. Những nhà này bán xăng dầu nên khi pháo bắn thì cháy trụi. Tất cả người già, trẻ nhỏ, phụ nữ lánh nạn ở đây đều bị thiêu sống."[40]

Scott Laderman, giáo sư lịch sử tại Đại học Minnesota, trong một bài viết cho biết: Trong tháng 5 năm 1970, Ủy ban các học giả về châu Á đã xuất bản "Mười hai câu hỏi về Việt Nam" một tài liệu nhằm mục đích đáp ứng một số câu hỏi cơ bản về cuộc chiến tranh mà các tổ chức tin rằng đã bị che khuất bởi các thông tin chính thức nhưng sai lạc của chính phủ Mỹ. Phần cuối cùng của tài liệu, các học giả tỏ ý nghi ngờ và không đồng ý với báo cáo của chính quyền Nixon về vụ thảm sát Huế[41]

Nhà sử học David Hunt cho rằng các tài liệu của Douglas Pike về vụ thảm sát là một trong các chính sách của chính phủ Mỹ, "về tất cả các phương diện, hoàn toàn là nhằm tuyên truyền". Năm 1988, Douglas Pike nói rằng chính ông ta trước đó "đã tham gia vào một nỗ lực có chủ đích nhằm làm mất uy tín của quân Giải phóng".[42]

Chú thích

  1. ^ Tet Offensive, the battle of Hue, in History of Vietnam - Tet Offensive”. Vets With A Mission, this article is taken from the book Vietnam Experience Nineteen Sixty-Eight ISBN 978-0939526062. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2010. Không cho phép mã đánh dấu trong: |publisher= (trợ giúp); Liên kết ngoài trong |publisher= (trợ giúp)
  2. ^ THE 1968 'HUE MASSACRE', D. Gareth Porter, trích:"The agency of the Saigon government given overall responsibility for compiling data on the alleged "massacre" and publicizing the information was neither the Ministry of Social Welfare and Refugees nor the Ministry of Health, as one might have expected, but the Tenth Political Warfare Battalion of the Army of the Republic of Vietnam (ARVN)."
  3. ^ a b Sự thật về 3 nhân vật bị kẻ thù gọi là "đồ tể khát máu": Sự vu khống tráo trở..., Báo Công An Nhân Dân, Chuyên đề An Ninh Thế giới và Văn nghệ Công An
  4. ^ a b c "Giải mã" Mậu Thân 1968, Thanh Niên Online
  5. ^ a b c d Herman & Porter, The Myth of the Hue Massacre, Ramparts, Tập 13, Chương 8, May-June 1975
  6. ^ a b Douglas Pike, "Vietcong Strategy of Terror" (PDF)
  7. ^ White, Matthew (2013). Atrocities: The 100 Deadliest Episodes in Human History. W. W. Norton & Company. tr. 469. ISBN 0393345238.
  8. ^ a b c d D.Gareth Porter. "The 1968 'Hue Massacre'"]. Tạp chí Indochina Chronicle số 33, 24/6/1974. phần 1 phần 2
  9. ^ Saigon Post, March 17, 1968
  10. ^ VC Carnage in Hue, Tenth Political Warfare Battalion, 1968, p. 8.
  11. ^ a b Alje Vennema, "The Tragedy of Hue," unpublished manuscript, 1968, pp. 19-23.
  12. ^ The Tet Offensive: A Concise History. James H. Willbanks. Columbia University Press. P 101
  13. ^ Woodruff, Mark. Unheralded Victory. Arlington, VA: Vandamere Press, 1999. tr 209
  14. ^ “Phỏng vấn với Hoàng Phủ Ngọc Tường, 1982”. WGBH OpenVault. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2013.
  15. ^ Lê Minh (7 tháng 3 năm 2014). “Huế trong chiến dịch Mậu Thân”. Tạp chí Sông Hương.
  16. ^ Huế - Xuân 68, trang 75, 76, Thành ủy Huế, 1988
  17. ^ Lật lại những câu chuyện lịch sử "nhạy cảm" trong chiến dịch Mậu Thân 1968, Báo điện tử Dân trí
  18. ^ a b Mặt thật, Vụ tàn sát ở Huế, Bùi Tín, Nxb Sài Gòn Press
  19. ^ Mây mù thế kỷ, Phần 1: Nhìn lại cuộc chiến tranh, Bùi Tín, Nxb Đa Nguyên
  20. ^ Young, Marilyn B., The Vietnam Wars, 1945-1990 (New York: Harper Perennial, 1991)[cần số trang]
  21. ^ D.Gareth Porter. "The 1968 'Hue Massacre'". Tạp chí Indochina Chronicle số 33, 24/6/1974. Trích: "...Về những người Công giáo ở Huế, bằng chứng từ cả các tài liệu của Mặt trận và nhân chứng cho thấy chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng không hướng về phía chống lại Giáo hội Công giáo. Tài liệu Kế hoạch công kích và khởi nghĩa bắt được nói đến việc 'cô lập (isolate) những tên phản cách mạng lợi dụng Công giáo tại Phú Cam'. Tuy nhiên, trong thuật ngữ tiếng Việt của Cộng sản, 'cô lập' có nghĩa hành động để cắt đứt các ảnh hưởng của các cá nhân nói trên ra khỏi các sự vụ của cộng đồng. Nó không có nghĩa hành quyết hay thậm chí không nhất thiết có nghĩa bỏ tù, trái với những gì mà các chuyên gia chiến tranh chính trị có thể thuyết phục. Tài liệu chỉ ra rằng chỉ có các mục sư bị phát hiện 'che giấu địch' mới là đối tượng trừng phạt, và mức độ trừng phạt cụ thể còn tùy vào mức độ mà chống đối cách mạng của cá nhân đó trong quá khứ...".
  22. ^ D.Gareth Porter. "The 1968 'Hue Massacre'". Tạp chí Indochina Chronicle số 33, 24/6/1974, trích: "...chính quyền Sài Gòn không cho phép bất kỳ phóng viên nào xem các địa điểm có mộ hay các tử thi..."
  23. ^ Porter trích Le Monde, April 13, 1968, rằng Marc Riboud dùng trực thăng để đến địa điểm đã thông báo thì phi công từ chối hạ cánh với lí do là vùng đất đó "không an toàn". Danh sách địa điểm không giống với cái mà Đại tá Tỉnh trưởng Phạm Văn Khoa miêu tả.
  24. ^ Porter trích báo Tiền Tuyến, ngày 3-5-1969; ông cũng dẫn lời Washington Post, May 5, 1969 là "Một sỹ quan Mỹ tại Huế đã thừa nhận với một phóng viên tờ Washington Post tại một lễ tang tập thể cho những người chết: Một số có thể đã đơn giản là bị kẹt lại [trong các cuộc giao tranh]"
  25. ^ Porter nêu ra sự mâu thuẫn thông tin trong hai cuộc phỏng vấn của Baltimore Sun và báo Tiền Tuyến, ngày 17 tháng 10 năm 1969, với cùng một nhân chứng
  26. ^ D.Gareth Porter. "The 1968 'Hue Massacre'". Tạp chí Indochina Chronicle số 33, 24/6/1974, trích: "...toàn bộ những vùng tìm thấy các hố chôn là chiến trường trong nhiều tuần của năm 1968. Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã tiếp tục giữ nhiều làng nhỏ ngay cả sau khi đã bị đẩy ra khỏi thành phố, và một số làng vẫn nằm trong quyền kiểm soát của họ trong hàng tháng, khi các máy bay ném bom của Mỹ đánh phá họ dữ dội...Làng Phú Mỹ, chỉ cách Huế 3 dặm về phía đông, là một trong các làng đã bị các đơn vị Cộng sản chiếm giữ trong cuộc tổng tấn công, khi nhiều nam giới trẻ nằm trong tuổi quân sự đã được gọi vào Quân Giải Phóng. Theo một cuộc phỏng vấn sau này với một người dân làng, máy bay Mỹ đã liên tục ném bom làng, phá hủy hàng trăm ngôi nhà và làm nhiều dân thường thiệt mạng....Phú Xuân, cách Huế 13 dặm, đã là chiến trường của các cuộc giao tranh dữ dội, trong đó có sự sử dụng mạnh của không lực Mỹ, trong các tuần nối tiếp cuộc Tổng tấn công..."
  27. ^ http://msuweb.montclair.edu/~furrg/porterhue2.html. Trích: The available evidence -- not from NLF sources but from official U.S. and Saigon documents and from independent observers -- indicates that the official story of an indiscriminate slaughter of those who were considered to be unsympathetic to the NLF is a complete fabrication. Not only is the number of bodies uncovered in and around Hue open to question, but more important, the cause of death appears to have been shifted from the fighting itself to NLF execution. And the most detailed and "authoritative" account of the alleged executions put together by either government does not stand up under examination.
  28. ^ http://phapluattp.vn/20130204122756478p0c1112/mau-than-1968-45-nam-nhin-lai-bai-5-tan-cong-tan-cong-lien-tuc.htm
  29. ^ The Washington Connection and Third World Fascism By Noam Chomsky, Edward S. Herman. Black Rose Books 1979. ISBN 0-919618-89-8. P. 345-353
  30. ^ For Reasons Of State. By Noam Chomsky. Penguin Books India, Jul 1, 2003. ISBN 9780143030546. P 231
  31. ^ Oriana Fallaci, "Working Up to Killing," The Washington Monthly (February 1972), p.40
  32. ^ Laderman, Scott (16 tháng 1 năm 2009). Tours of Vietnam: War, Travel Guides, and Memory. Durham, NC: Duke University Press Books. tr. 94. ISBN 978-0822344148.
  33. ^ a b Oberdorfer, Don. Tet!: The Turning Point in the Vietnam War. New York: Doubleday & Company, 1971.
  34. ^ a b Tet - What Really Happened at Hue
  35. ^ Oberdorfer, pp. 232–233
  36. ^ Interview with Mrs. Nguyen Cong Minh, WGBH Educational Foundation. Trích: First of all, they arrived at Xuan O where they dug up, ah, that man pointed out, he only knew one tunnel and pointed it out and when it was dug up, there were the remains of seven persons who were all tied up, tied up with their hands behind their backs. And when, ah, when, ah, when they were dug up they were found to have had their skulls broken. They were having their arms tied behind their backs. And when they were dug up, the ropes could be seen connected with one another. And then, ah, then the digging continued. In that whole area, the soil was all sandy. And so when people went around searching they saw that erosion, ah, the sand shifted, ah, the sand shifted and so the bones were exposed. And so all the, It was all sand around there, sand burnt everything, and the graves, the places where there was sand, uh, there was green grass, then people dug up and then they found the remains. And so people dug up this area like that for a whole month and were able to find, ah, 250 remains. Among them, 50 were identified by their relatives. And, ah, each time a corpse was dug up we found, we tore off the shirt and went down to a stream to wash it in order to identify the color of the fabric, to see whether the color was still there. I remembered that when my father left he wore a brown jacket. And so I had to tear off jackets to find out whether my father's jacket was among them. Or I looked at teeth to find out whether certain teeth were missing. But we were never able to find the remains of my father.
    Then, ah, the digging went on like that in Xuan O, Xuan Doi and then in Phu Tu. And we continued to follow the diggers until September 1969. When we arrived in Phu Tu, eight more tunnels were dug up. But, ah, it rained in September. So when they dug the remains up they were drenched. Water mixed in with the flesh and so it was impossible, it was impossible to see anything at all. The flesh was washed out and the rain poured, and so we were not able to see anything at all. But all of them, but it was strange that all the skulls were broken and the arms were tied up and the positions indicated that they were kneeling when they died. They were bundling up, they were huddling. And, not, not, the skeletons were not stretched out. They were sitting huddled up like that only. And, when, when September came, ah, I continued to follow the search party until until September 1969, but I was never able to find my father's remains. ...... [This section of the interview has not been translated]
  37. ^ Know Hue?
  38. ^ "Documenting a War"
  39. ^ Siemon-Netto, Uwe. Đức, A Reporter's Love for a Wounded People. Copy Express, 2013. tr 241-2.
  40. ^ Vietnam: A Television History." PBS network produce by WGBH Boston, in cooperation with Central Independent Television/ United Kingdom and Antenne–2/France, and in association with LRE Production. Tập 7
  41. ^ Iraq, Vietnam, and the Bloodbath Theory
  42. ^ Laderman, Scott (16 tháng 1 năm 2009). Tours of Vietnam: War, Travel Guides, and Memory. Durham, NC: Duke University Press Books. tr. 90. ISBN 978-0822344148.

Đọc thêm

  • Arnold, James R., Tet Offensive 1968: Turning Point in Vietnam, London: Osprey 1990
  • Bullington, James R. "And Here, See Hue," Foreign Service Journal, November 1968.
  • Christmas, G. R. "A Company Commander Reflects on Operation Hue City," Marine Corps Gazette, April 1971.
  • Davidson, Phillip B. Vietnam at War: The History, 1946-1975. Novato, CA: Presidio Press, 1988.
  • Hammel, Eric. Fire in the Streets: The Battle for Hue, Tet 1968. Chicago: Contemporary Books, 1991.
  • Harkanson, John, and Charles McMahon. "USMC & Tet ’68: There’s a Little Trouble in Hue …," Vietnam Combat, Winter 1985.
  • Krohn, Charles A., The Lost Battalion: Controversy and Casualties in the Battle of Hue, Praeger Publishers, 1993
  • Nolan, Keith William. Battle for Hue: Tet 1968. Novato, CA: Presidio Press, 1983.
  • Palmer, Dave Richard. Summons of the Trumpet: U.S.-Vietnam in Perspective. Novato, CA: Presidio Press, 1978.
  • Phan Van Son. The Viet Cong Tet Offensive (1968). Saigon: Republic of Vietnam Armed Forces, 1969.
  • Pike, Douglas. PAVN: People’s Army of Vietnam. Novato, CA: Presidio Press, 1986.
  • Secrets of the Vietnam War. Novato, CA: Presidio Press, 1990.
  • Smith, Captain George W., USA. "The Battle of Hue," Infantry, July-August 1968.
  • Stanton, Shelby L. Anatomy of a Division: 1st Cav in Vietnam. Novato, CA: Presidio Press, 1987.
  • Tolson, Major General John J., 3rd. Airmobility: 1961-1971. Washington, D.C.: Department of the Army, 1973.
  • Truong Sinh. "The Fight to Liberate the City of Hue During Mau Than Tet (1969)," Hoc Tap, December 1974.
  • Tucker, Spencer, Vietnam. London: UCL Press, 1999
  • Vietnam Order of Battle. New York: U.S. News and World Report, Inc., 1981.

Xem thêm

Liên kết ngoài

(tiếng Việt)

(tiếng Anh)

Phỏng vấn nhân chứng