Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tị nạn”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Chú thích: clean up using AWB
Arc Warden (thảo luận | đóng góp)
n →‎Lịch sử: tên bài chính, replaced: Hòa Lan → Hà Lan using AWB
Dòng 7: Dòng 7:
Trong [[lịch sử Việt Nam|sử Việt]] thì có chép việc vua [[Lý Huệ Tông]] sau khi nhường ngôi cho con là [[Lý Chiêu Hoàng|Công chúa Chiêu Thánh]] và rồi [[nhà Lý]] mất ngôi về tay [[nhà Trần]] thì cựu hoàng Huệ Tông vào tu ở chùa Chân Giáo để tránh sự phiền nhiễu chính trị. Tuy không bị bắt, Huệ Tông cũng bị [[Trần Thủ Độ]] làm áp lực tinh thần và phải treo cổ tự vẫn, hưởng dương 33 tuổi.
Trong [[lịch sử Việt Nam|sử Việt]] thì có chép việc vua [[Lý Huệ Tông]] sau khi nhường ngôi cho con là [[Lý Chiêu Hoàng|Công chúa Chiêu Thánh]] và rồi [[nhà Lý]] mất ngôi về tay [[nhà Trần]] thì cựu hoàng Huệ Tông vào tu ở chùa Chân Giáo để tránh sự phiền nhiễu chính trị. Tuy không bị bắt, Huệ Tông cũng bị [[Trần Thủ Độ]] làm áp lực tinh thần và phải treo cổ tự vẫn, hưởng dương 33 tuổi.


Qua nhiều thế kỷ, lịch sử từng ghi những đợt di dân để lánh nạn như vào năm 1685 ở [[Pháp]] có [[Sắc lệnh Fontainebleau]] (''Édit de Fontainebleau'') khi vua [[Louis XIV của Pháp|Louis XIV]] xuống chiếu cấm đạo [[Tin Lành]] khiến hàng trăm nghìn giáo dân [[Huguenot]] phải bỏ quê hương trốn sang các nước [[Anh]], [[Thụy Sĩ]], [[Hà Lan|Hòa Lan]], [[Đức]], v.v. Ở Đông Âu thì có những đợt cấm [[do Thái giáo|đạo Do Thái]] làm hơn hai triệu dân đạo ở [[Nga]] phải bỏ chạy vào những thập niên cuối [[thế kỷ 19]].
Qua nhiều thế kỷ, lịch sử từng ghi những đợt di dân để lánh nạn như vào năm 1685 ở [[Pháp]] có [[Sắc lệnh Fontainebleau]] (''Édit de Fontainebleau'') khi vua [[Louis XIV của Pháp|Louis XIV]] xuống chiếu cấm đạo [[Tin Lành]] khiến hàng trăm nghìn giáo dân [[Huguenot]] phải bỏ quê hương trốn sang các nước [[Anh]], [[Thụy Sĩ]], [[Hà Lan]], [[Đức]], v.v. Ở Đông Âu thì có những đợt cấm [[do Thái giáo|đạo Do Thái]] làm hơn hai triệu dân đạo ở [[Nga]] phải bỏ chạy vào những thập niên cuối [[thế kỷ 19]].


Tổ chức đầu tiên lập ra để đối phó với vấn đề tỵ nạn là [[Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn|Cao ủy Tỵ nạn]] của [[Hội Quốc Liên]] vào năm 1921. Cuộc nội chiến ở Nga ngay sau [[Cách mạng Tháng Mười]] năm 1917 đã tạo ra khoảng một triệu rưởi dân Nga bỏ nước để tránh chính quyền [[Chủ nghĩa cộng sản|Cộng sản]]. Năm 1923 thì Cao ủy lãnh thêm nhiệm vụ cứu trợ dân [[Armenia]] ở Tiểu Á trong cuộc thanh trừng diệt chủng của [[Thổ Nhĩ Kỳ]].
Tổ chức đầu tiên lập ra để đối phó với vấn đề tỵ nạn là [[Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn|Cao ủy Tỵ nạn]] của [[Hội Quốc Liên]] vào năm 1921. Cuộc nội chiến ở Nga ngay sau [[Cách mạng Tháng Mười]] năm 1917 đã tạo ra khoảng một triệu rưởi dân Nga bỏ nước để tránh chính quyền [[Chủ nghĩa cộng sản|Cộng sản]]. Năm 1923 thì Cao ủy lãnh thêm nhiệm vụ cứu trợ dân [[Armenia]] ở Tiểu Á trong cuộc thanh trừng diệt chủng của [[Thổ Nhĩ Kỳ]].

Phiên bản lúc 01:46, ngày 20 tháng 10 năm 2014

Tỵ nạn hay tị nạn là một trường hợp phải chạy trốn qua một xứ khác, nơi khác để thoát cảnh hiểm nguy, ngược đãi, hoặc bắt bớ bởi một quyền lực ở chốn cư ngụ. Người tỵ nạn là người thực hiện hành động tỵ nạn (tránh nạn) đó.

Lịch sử

Dân tỵ nạn Nga năm 1942 trong trận Stalingrad thời Đệ nhị Thế chiến

Khái niệm tỵ nạn đã có từ thời cổ đại khi người chạy trốn có thể tìm đến nơi thần quyền như ở một ngôi đền để lánh nạn mà không bị bắt. Thời Trung cổ, ở châu Âu cũng ghi nhận có một số luật lệ quy định quyền lánh nạn ở chốn tôn nghiêm thờ phụng.

Trong sử Việt thì có chép việc vua Lý Huệ Tông sau khi nhường ngôi cho con là Công chúa Chiêu Thánh và rồi nhà Lý mất ngôi về tay nhà Trần thì cựu hoàng Huệ Tông vào tu ở chùa Chân Giáo để tránh sự phiền nhiễu chính trị. Tuy không bị bắt, Huệ Tông cũng bị Trần Thủ Độ làm áp lực tinh thần và phải treo cổ tự vẫn, hưởng dương 33 tuổi.

Qua nhiều thế kỷ, lịch sử từng ghi những đợt di dân để lánh nạn như vào năm 1685 ở PhápSắc lệnh Fontainebleau (Édit de Fontainebleau) khi vua Louis XIV xuống chiếu cấm đạo Tin Lành khiến hàng trăm nghìn giáo dân Huguenot phải bỏ quê hương trốn sang các nước Anh, Thụy Sĩ, Hà Lan, Đức, v.v. Ở Đông Âu thì có những đợt cấm đạo Do Thái làm hơn hai triệu dân đạo ở Nga phải bỏ chạy vào những thập niên cuối thế kỷ 19.

Tổ chức đầu tiên lập ra để đối phó với vấn đề tỵ nạn là Cao ủy Tỵ nạn của Hội Quốc Liên vào năm 1921. Cuộc nội chiến ở Nga ngay sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917 đã tạo ra khoảng một triệu rưởi dân Nga bỏ nước để tránh chính quyền Cộng sản. Năm 1923 thì Cao ủy lãnh thêm nhiệm vụ cứu trợ dân Armenia ở Tiểu Á trong cuộc thanh trừng diệt chủng của Thổ Nhĩ Kỳ.

Đệ nhị Thế chiến

Đệ nhị Thế chiến đánh dấu một bước rẽ với con số dân tỵ nạn lên cao và ảnh hưởng một vùng rộng lớn. Năm 1943 phe Đồng Minh cho thành lập Quyền vụ Cứu trợ và Phục hồi Liên quốc (United Nations Relief and Rehabilitation Administration, UNRAA) để giúp ổn định những khu vực mới được giải phóng khỏi vòng kiểm soát của phe Trục (đệ nhị thế chiến). Công tác này bao gồm việc định cư hơn bảy triệu dân sơ tán nay cần được hồi hương. Số khoảng một triệu người không muốn hồi hương thì cần trại tạm trú.

Hội nghị Potsdam năm 1945 cũng hoạch định lại biên giới ở Âu châu khiến 15 triệu dân Đức bỗng nhiên thuộc thẩm quyền của nhà chức trách mới của Ba Lan, Tiệp Khắc, và Hung Gia Lợi. Trong khi đó Hội nghị Yalta có ghi điều kiện buộc hồi hương hàng triệu dân Nga về Liên Xô.[1]

Xem thêm

Chú thích