Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kinh tế Canada”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Bình Giang (thảo luận | đóng góp)
Bình Giang (thảo luận | đóng góp)
Dòng 60: Dòng 60:
===Năng lượng===
===Năng lượng===
[[Image:Oil well3419.jpg|thumb|0px|right|[[Nodding donkey]] pumping an oil well near [[Sarnia, Ontario]]]]
[[Image:Oil well3419.jpg|thumb|0px|right|[[Nodding donkey]] pumping an oil well near [[Sarnia, Ontario]]]]
[[Canada]] là một trong số ít các quốc gia phát triển có [[xuất khẩu]] ròng (xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu) năng lượng. Trữ lượng dầu và khí lớn tập trung chủ yếu ở [[Alberta]] và lãnh thổ phía Bắc; ngoài ra còn ở các vùng lân cận của [[British Columbia]] và [[Saskatchewan]]. Theo [[USGS]], trữ lượng khổng lồ của [[Athabasca Tar Sands]] khiến [[Canada]] thành nước đứng thứ hai thế giới về trữ lượng dầu mỏ, sau [[Saudi Arabia]]. [[British Columbia]] và [[Quebec]], cũng như là ở [[Ontario]], [[Saskatchewan]], [[Manitoba]] và khu vực [[Labrador]], là những nơi có tiềm năng [[thủy điện]] rất lơn, đây là nguồn năng lương phong phú, không tốn kém và thân thiện với môi trường.
[[Canada]] là một trong số ít các quốc gia phát triển có [[xuất khẩu]] ròng (xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu) năng lượng. Trữ lượng dầu và khí lớn tập trung chủ yếu ở [[Alberta]] và lãnh thổ phía Bắc; ngoài ra còn ở các vùng lân cận của [[British Columbia]] và [[Saskatchewan]]. Theo [[USGS]], trữ lượng khổng lồ của [[Athabasca Tar Sands]] khiến [[Canada]] thành nước đứng thứ hai thế giới về trữ lượng dầu mỏ, sau [[Saudi Arabia]]. [[British Columbia]] và [[Quebec]], cũng như là ở [[Ontario]], [[Saskatchewan]], [[Manitoba]] và khu vực [[Labrador]], là những nơi có tiềm năng [[thủy điện]] rất lơn, đây là nguồn năng lương phong phú, không tốn kém và thân thiện với môi trường. Điều này phần nào giải thích tại sao [[Canada]] là một trong những khu vực tiêu dùng năng lượng bình quân đầu người cao nhất thế giới.<ref>[http://www.ec.gc.ca/soer-ree/English/Indicators/Issues/Energy/Bulletin/ec_iss_e.cfm Environment Canada - Energy Consumption]</ref><ref>[http://www.environmentalindicators.com/htdocs/indicators/8ener.htm Canada vs. The OECD: An Environmental Comparison]</ref> Năng lượng giá rẻ đã kích thích hoạt động và sáng tạo của một số ngành [[công nghiệp]] quan trọng, như ngành luyện [[nhôm]] quy mô lớn ở [[Quebec]], [[Alberta]] và [[British Columbia]].


Trong quá khứ, một vấn đề quan trọng trong chính trị [[Canada]] là trong khi Tây [[Canada]] là một trong những khu vực giàu nhất thế giới về các nguồn năng lượng, Bắc [[Ontario]] - trái tim công nghiệp của Canada - lại hầu như khôngtài nguyên năng lượng. Tuy nhiên, vận chuyển dầu [[Alberta]] tới miền Tây Hoa Kỳ lại rẻ hơn tới miền Đông Canada. Thành ra, các cảng ở phía Đông [[Canada]] lại đi nhập khẩu một số lượng đáng kể dầu từ nước ngoài, và [[Ontario]] sử dụng đáng kể điện hạt nhân.
Một phần của lý do này mà [[Canada]] là một trong những khu vực trên thế giới có lượng tiêu dùng bình quân đầu người cao nhất về năng lượng.<ref>[http://www.ec.gc.ca/soer-ree/English/Indicators/Issues/Energy/Bulletin/ec_iss_e.cfm Environment Canada - Energy Consumption]</ref><ref>[http://www.environmentalindicators.com/htdocs/indicators/8ener.htm Canada vs. The OECD: An Environmental Comparison]</ref>
Năng lượng giá rẻ đã kích thích hoạt động và sáng tạo của một số ngành [[công nghiệp]] quan trọng, như ngành [[công nghiệp]] lớn là [[Nhôm]] ở [[Quebec]], [[Alberta]] và [[British Columbia]].


Mỗi khi dầu tăng giá, phần lớn dân [[Canada]] phải chịu thiệt hại, thì miền Tây [[Canada]] lại hưởng lợi. Các chính sách năng lượng quốc gia vào đầu những năm 1980 đã cố gắng để ép buộc vùng [[Alberta]] bán dầu giá thấp để phục vụ cho miền Đông [[Canada]]. Chính sách này minh chứng sự phân chia sâu sắc và mất đi một cách nhanh chóng tầm quan trọng của nó khi giá dầu sụt mạnh vào giữa những năm 1980. Một trong những phần gây tranh cãi nhất của [[Hiệp định thương mại tự do Canada-Hoa Kỳ]] năm 1988 là một cam kết rằng [[Canada]] sẽ không bao giờ tính tiền năng lượng đối với [[Hoa Kỳ]] cao hơn khi tính với người dân [[Canada]].
Trong quá khứ, một vấn đề quan trọng trong chính trị [[Canada]] là : trong khi tây [[Canada]] là một trong những khu vực giàu nhất thế giới về các nguồn năng lượng,trong khi công nghiệp trung tâm của miền Bắc [[Ontario]] lạiít hơn các nguồn năng lượng. Tuy nhiên, rẻ [[Alberta]] chỉ dành cho các tàu chở dầu để vào phía Tây [[Hoa Kỳ]] hơn vào phía Đông [[Canada]]. Các cảng ở phía Đông [[Canada]] nhập khẩu dầu từ nước ngoài một số lượng đáng kể , và [[Ontario]] sử dụng đáng kể điện hạt nhân.
Trong lần giá dầu cao có nghĩa là phần lớn dân số của [[Canada]] phải gặp khổ sở, trong khi miền tây [[Canada]] lại thu được lợi ích. Các chính sách năng lượng quốc gia vào đầu những năm 1980 đã cố gắng để ép buộc vùng [[Alberta]] bán dầu giá thấp để phục vụ cho miền Đông [[Canada]]. Chính sách này minh chứng sự phân chia sâu sắc và mất đi một cách nhanh chóng tầm quan trọng của nó như giá dầu sụp đổ vào giữa những năm 1980. Một trong những phần thể thay đổi được của [[Hiệp định Thương mại tự do]] [[Canada-Hoa Kỳ]] vào năm 1988 là một lời hứa rằng [[Canada]] sẽ không bao giờ cung cấp cho [[Hoa Kỳ]] năng lượng nhiều hơn so với người dân của [[Canada]].


===Nông nghiệp===
===Nông nghiệp===

Phiên bản lúc 07:59, ngày 23 tháng 5 năm 2009

Kinh tế Canada
Tiền tệđôla Canada (CAD)
Năm tài chính01/04 – 31/03
Tổ chức kinh tếNAFTA, OECD, WTO và các tổ chức khác
Số liệu thống kê
GDP1.274 nghìn tỷ đôla Mỹ (ước tính, năm 2007)
Tăng trưởng GDP0,5% (2008)[1]
GDP đầu người38.200 đôla Mỹ (ước tính, năm 2007)
GDP theo lĩnh vựcngành nông nghiệp chiếm 2,1%, ngành công nghiệp chiếm 28,8%, ngành dịch vụ chiếm 69,1% (ước tính , năm 2007)
Lạm phát (CPI)1,2% (ước tính, năm 2008)
Tỷ lệ nghèo10,8% (tương đối năm 2005) / 4,9% (tuyệt đối năm 2004)
Hệ số Gini31,5% (năm 2004)
Lực lượng lao động17,9 triệu (ước tính , năm 2007)
Cơ cấu lao động theo nghềnông nghiệp (2%), sản xuất (13%), xây dựng (6%), dịch vụ (76%), khác (3%) (năm 2006)
Thất nghiệp7,2% (tháng 2/2009)
Các ngành chínhcung cấp dụng cụ giao thông vận tải, công nghiệp hóa chất, xử lý khoáng sản, thực phẩm, chế biến gỗ và giấy, chế biến thủy sản, xăng dầu và khí đốt thiên nhiên
Thương mại quốc tế
Xuất khẩu440,1 tỷ đôla Mỹ (ước tính, năm 2007)
Mặt hàng XKô tô-xe máy và các phụ tùng, máy móc công nghiệp, máy bay, thiết bị viễn thông, điện tử, công nghiệp hóa chất, nhựa, phân bón, bột giấy, gỗ, dầu thô,khí đốt thiên nhiên, điện, nhôm.
Đối tác XKHoa Kỳ 78,9%, Vương quốc Anh 2,8%, Trung Quốc 2,1% (năm 2007)
Nhập khẩu394.4 tỷ đôla Mỹ (ước tính , năm 2007)
Mặt hàng NKmáy móc và trang thiết bị, ô tô-xe máy và phụ tùng, điện tử, dầu thô, công nghiệp hóa chất, điện, hàng tiêu dùng.
Đối tác NKHoa Kỳ 54,1%, Trung Quốc 9,4%, Mexico 4,2% (năm 2007)
Tổng nợ nước ngoài758,6 tỷ đôla Mỹ (ước, năm 2007)
Tài chính công
Nợ công467,3 tỷ CAD (Liên bang, 2007)
Thu565,8 tỷ đôla Mỹ
Chi551,2 tỷ đôla Mỹ (ước, năm 2007)
Viện trợ3,9 tỷ đôla Mỹ (các nhà tài trợ) (2007)
Nguồn dữ liệu: CIA.gov
Tất cả giá trị đều tính bằng đô la Mỹ, trừ khi được chú thích.


Canada là nền kinh tế lớn thứ 9 trên thế giới[2] (tính theo giá trị đô la Mỹ theo tỷ giá thị trường),[3] và là một trong các quốc gia giàu nhất trên thế giới, là thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và nhóm tám quốc gia phát triển (G8). Giống như các quốc gia phát triển khác, ngành dịch vụ chiếm ưu thế trong nền kinh tế Canada, chiếm 3/4 nền kinh tế Canada[4]. Khác với các nước phát triển khác, Canada chú trọng vào khu vực sơ khai, với khai thác gỗ và khai thác dầu mỏ là hai ngành quan trọng nhất. Canada cũng có một khu vực chế tạo tương đối lớn, tập trung ở trung tâm Canada, với ngành công nghiệp ô tô-xe máy là đặc biệt quan trọng nhất.

Canada có thứ hạng cao trong danh sách các quốc gia có nền kinh tế tự do trên thế giới.[5] Ngày nay, kinh tế Canada liên kết chặt chẽ với kinh tế Hoa Kỳ cả về thể chế kinh tế theo định hướng thị trường lẫn mô hình sản xuất.[6] Tại thời điểm tháng 10 năm 2007 , Canada có tỉ lệ thất nghiệp là 5,9 %, thấp nhất trong 33 năm gần đây. Tỷ lệ thất nghiệp ở các tỉnh là khác nhau từ thấp nhất là 3,6% ở Alberta cho đến cao nhất là 14,6% ở NewfoundlandLabrador.[7] Trong danh sách 2.000 công ty lớn nhất thể giới năm 2008 của báo Forbes Global, Canada có 69 công ty, xếp hạng 5 ngang với Pháp.[8] Vào năm 2008, tổng gánh nặng nợ chính phủ của Canada là thấp nhất trong các thành viên của G8.

Thương mại quốc tế đóng góp một phần lớn trong nền kinh tế Canada, đặc biệt là các nguồn tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa rất quan trọng. Hoa Kỳ hiện là đối tác thương mại lớn nhất, chiếm khoảng 76% xuất khẩu và 65% nhập khẩu trong năm 2007 của Canada.[9]. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Canada lớn thứ 8 trong tất cả các quốc gia trên thế giới trong năm 2006.[10]

Các thành phần kinh tế

Canada là quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú trải dài trên khắp các khu vực của đất nước. Ở British Columbia, ngành công nghiệp về lâm nghiệp chiếm một vị trí quan trọng, trong khi ngành công nghiệp dầu mỏ có vai trò quan trọng ở Alberta , NewfoundlandLabrador. Miền bắc Ontario là nơi có các mỏ dầu, trong khi các ngành công nghiệp thủy sản lâu nay đã được chính phủ chú ý đến như là tỉnh Atlantic, mặc dù trong thời gian gần đây đã có những bước từ chối. Canada có nguồn tài nguyên khoáng sản như là than,đồng,quặng sắt,và vàng.

Các ngành công nghiệp đang ngày càng trở nên ít quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế. Chỉ có một số ít lao động của Canada chiếm 4% đang làm việc trong các lĩnh vực đó, và họ đóng góp ít hơn 6% cho GDP. Canada vẫn còn việc quan trọng trong nhiều phần còn lại của đất nước. Nhiều nếu không phải nói là nhiều nhất, thị xã ở miền Bắc Canada, nơi sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn, do sự tồn tại của một mỏ ở gần đó hoặc nguồn khai thác gỗ. Canada có các công ty hàng đầu thế giới trong việc sản xuất nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên như : vàng, nickel, uran, kim cươngchì.Một số các công ty lớn nhất của Canada được dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên cung cấp cho các ngành công nghiệp, như là EnCana, Cameco, Goldcorp,và Barrick Gold. Đại đa số các sản phẩm được xuất khẩu, chủ yếu vào Hoa Kỳ. Ngoài ra còn có nhiều ngành công nghiệpdịch vụ có liên kết trực tiếp với nhau. Ví dụ một trong những lĩnh vực sản xuất của các ngành công nghiệp lớn nhất của Canada là bột giấy và giấy ở khu vực, đó là trực tiếp liên kết với các ngành công nghiệp khai thác gỗ.

Nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối lớn có tác dụng đến kinh tếxã hội của Canada.Trong khi các ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ rất dễ để chuẩn hóa,nguồn tài nguyên thiên nhiên thì phong phú nằm ở nhiều khu vực khác nhau. Điều này đảm bảo cho việc phát triển cơ cấu kinh tế khác nhau ở mỗi một khu vực của Canada, đóng góp mạnh của nhiều khu vực của Canada. Cũng trong thời gian đó phần lớn các nguồn lực được xuất khẩu, kết hợp chặt chẽ Canada vào nền kinh tế quốc tế. Howlett và Ramesh cho rằng sự bất ổn thuộc về các ngành công nghiệp cũng góp phần vào và sự can thiệp nhiều hơn của chính phủ trong nền kinh tế, làm giảm tác tác động của xã hội đối với thay đổi của thị trường. [11]

Các ngành công nghiệp phát triển cũng làm tăng sự quan trọng của câu hỏi về phát triển bền vững. Mặc dù nhiều thập kỷ qua Canada như là một nhà sản xuất các sản phẩm, nhưng ít có nguy cơ dùng hết. Các khám phá lớn tiếp tục được thực hiện, như khối lượng lớn nickel được tìm thấy tại vịnh Voisey. Hơn nữa, vùng phía bắc vẫn còn phần lớn chưa phát triển như giá cao hơn giá sản xuất hay nhiều công nghệ mới hoạt động tại khu vực này chưa phải là hiệu quả về chi phí. Trong những thập kỷ gần đây người dân Canada không chấp nhận sự tàn phá môi trường cùng với việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên. Vấn đề tăng lương và thổ dân khiếu nại về đất đai cũng được quan tâm hơn trước. Thay vào đó, nhiều công ty của Canada đã tập trung vào việc khai thác và mở rộng hoạt động ở của họ nước ngoài, nơi đang có mức giá thấp hơn và chính phủ các nước đó lại rất chào đón họ. Các công ty của Canada ngày càng quan tâm và thấy được vai trò của khu vực Mỹ Latin, khu vực Đông Nam Á, và Châu Phi.

Đây là nguồn tài nguyên tái tạo,nó có đưa ra một số những mối quan tâm lớn nhất. Sau nhiều thập kỷ qua về tăng quá mức lượng khai thác các cod sụp đổ, nhưng tất cả các ngành thủy sản trong những năm 1990, và cá hồi Thái Bình Dương cũng phải chịu rất nhiều ảnh hưởng của ngành công nghiệp.Các ngành công nghiệp khai thác gỗ, sau nhiều năm khai thác tràn lan, trong những năm gần đây đã di chuyển đến một mô hình bền vững hơn.

Năng lượng

Nodding donkey pumping an oil well near Sarnia, Ontario

Canada là một trong số ít các quốc gia phát triển có xuất khẩu ròng (xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu) năng lượng. Trữ lượng dầu và khí lớn tập trung chủ yếu ở Alberta và lãnh thổ phía Bắc; ngoài ra còn ở các vùng lân cận của British ColumbiaSaskatchewan. Theo USGS, trữ lượng khổng lồ của Athabasca Tar Sands khiến Canada thành nước đứng thứ hai thế giới về trữ lượng dầu mỏ, sau Saudi Arabia. British ColumbiaQuebec, cũng như là ở Ontario, Saskatchewan, Manitoba và khu vực Labrador, là những nơi có tiềm năng thủy điện rất lơn, đây là nguồn năng lương phong phú, không tốn kém và thân thiện với môi trường. Điều này phần nào giải thích tại sao Canada là một trong những khu vực tiêu dùng năng lượng bình quân đầu người cao nhất thế giới.[12][13] Năng lượng giá rẻ đã kích thích hoạt động và sáng tạo của một số ngành công nghiệp quan trọng, như ngành luyện nhôm quy mô lớn ở Quebec, AlbertaBritish Columbia.

Trong quá khứ, một vấn đề quan trọng trong chính trị Canada là trong khi Tây Canada là một trong những khu vực giàu nhất thế giới về các nguồn năng lượng, Bắc Ontario - trái tim công nghiệp của Canada - lại hầu như không có tài nguyên năng lượng gì. Tuy nhiên, vận chuyển dầu Alberta tới miền Tây Hoa Kỳ lại rẻ hơn tới miền Đông Canada. Thành ra, các cảng ở phía Đông Canada lại đi nhập khẩu một số lượng đáng kể dầu từ nước ngoài, và Ontario sử dụng đáng kể điện hạt nhân.

Mỗi khi dầu tăng giá, phần lớn dân Canada phải chịu thiệt hại, thì miền Tây Canada lại hưởng lợi. Các chính sách năng lượng quốc gia vào đầu những năm 1980 đã cố gắng để ép buộc vùng Alberta bán dầu giá thấp để phục vụ cho miền Đông Canada. Chính sách này minh chứng sự phân chia sâu sắc và mất đi một cách nhanh chóng tầm quan trọng của nó khi giá dầu sụt mạnh vào giữa những năm 1980. Một trong những phần gây tranh cãi nhất của Hiệp định thương mại tự do Canada-Hoa Kỳ ký năm 1988 là một cam kết rằng Canada sẽ không bao giờ tính tiền năng lượng đối với Hoa Kỳ cao hơn khi tính với người dân Canada.

Nông nghiệp

Canada là một trong những nhà cung cấp lớn nhất thế giới về các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là lúa mì và các hạt ngũ cốc.[14] Canada là một nước xuất khẩu lớn các sản phẩm nông nghiệp, đến Hoa Kỳ mà còn cho cả châu ÂuĐông Á.Giống như tất cả các quốc gia phát triển khác : tỷ lệ dân số và GDP bình quân dành cho ngành nông nghiệp giảm xuống đáng kể trong thế kỷ 20. Giống như các quốc gia phát triển khác, ngành công nghiệp sản xuất nông nghiệp của Canada nhận được nhiều trợ cấp và hỗ trợ của chính phủ. Tuy nhiên, Canada đã có một tổ chức trợ giúp mạnh, giảm bớt ảnh hưởng của thị trường thông qua việc trợ giúp của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Vào năm 2000, Canada chi khoảng 4,6 tỷ CDN hỗ trợ cho ngành công nghiệp.Trong đó 2,32 tỷ đồng đã được phân loại theo WTO danh thiếp của hỗ trợ "hộp xanh" , có nghĩa là nó không trực tiếp ảnh hưởng trên thị trường, chẳng hạn như tiền bạc hỗ trợ cho các nghiên cứu hoặc các thiên tai. Tất cả số tiền $ 848,2 triệu, trong đó đã được hỗ trợ trị giá ít hơn 5% giá trị của cây trồng mà họ đã được cung cấp cho, là ngưỡng nhập WTO. Do đó, Canada, chỉ cần dùng $ 848,2 triệu của nó,còn lại là $ 4,3 tỷ đồng phụ cấp trợ cấp của WTO.[15]

Sản xuất

Các mô hình của sự phát triển chung cho các quốc gia giàu có là một chuyển đổi từ một ngành công nghiệp chủ yếu dựa trên một trong những nền kinh tế sản xuất ,và sau đó dựa trên nền kinh tế dịch vụ . Canada đã không làm theo mô hình này : sản xuất luôn là ngành phụ, mặc dù không chắc chắn là không quan trọng. Một phần vì lý do này, Canada đã không chịu nhiều thiệt hại từ những thiệt hại của quá trình phi công nghiệp hóa trong năm 1970 và những năm 1980.

Trung tâm Canada là quê hương của nhiều chi nhánh của các ngành ô tô đến từ Hoa KỳNhật , phần nhiều các nhà máy thuộc sở hữu của các công ty thuộc Canada như là Magna InternationalLinamar Corporation.Trung tâm của Canada hiện nay sản xuất thêm nhiều xe mỗi năm hơn so với tiểu bang lân cận của Hoa KỳMichigan, trung tâm của ngành công nghiệp ô tô Hoa Kỳ. Các nhà sản xuất đã bị thu hút vào Canada do ở đây có trình độ dân trí rất cao và chi phí lao động thấp hơn so với Hoa Kỳ. Tài trợ công cộng của Canada cho hệ thống chăm sóc sức khỏe cũng là một điều quan trọng thu hút, vì nó miễn thuế cao cho các công ty bảo hiểm y tế về chi phí mà họ phải trả tiền tại Hoa Kỳ.

Hầu hết các ngành công nghiệp sản xuất của Canada bao gồm các chi nhánh sản xuất của các doanh nghiệp Hoa Kỳ, mặc dù có một số nhà sản xuất quan trọng là ở trong nước, như là Bombardier Inc.. Điều này đã đưa ra một số lo ngại cho người dân Canada. Chi nhánh cung cấp chủ yếu lao động blue collar jobs, với nghiên cứu và điều hành các vị trí hạn chế tới Hoa Kỳ. Công nghiệp hóaCanada đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt là tại Ontario (rất phụ thuộc vào các ngành công nghiệp ô tô), với các doanh nghiệp nước ngoài có chi nhánh ở tại đây. Khủng hoảng kinh tế chỉ làm tình hình xấu hơn, thậm chí nhiều chi nhánh đóng cửa ở (OshawaWindsor, Ontario đang đặc biệt là khó khăn).

Ngành dịch vụ

Trung tâm Toronto-Dominion ở Toronto

Các ngành dịch vụCanada là lớn và nhiều, sử dụng ba phần tư lao động của Canada và đóng góp chiếm hơn hai phần ba GDP.[16] Những chủ thuê người lớn nhất là ở khu vực bán lẻ, sử dụng gần 12% dân Canada.[17] Các ngành công nghiệp bán lẻ chủ yếu là tập trung ở một số ít chuỗi cửa hàng với nhau trong nhiều cụm khu mua sắm. Trong những năm gần đây có sự tăng lên của nhiều cửa hàng lớn, như là Wal-Mart (của Hoa Kỳ) và Future Shop (một chi nhánh có nhiều khách nhất của Hoa Kỳ), đã dẫn đến ít người lao động trong nước tham gia trong các lĩnh vực này và công việc bán lẻ di chuyển đến vùng ngoại ô.

Thứ hai, phần lớn nhất của các ngành dịch vụ là một công việc kinh doanh dịch vụ, chỉ sử dụng một chút nhỏ tỷ lệ phần trăm dân số. Điều này bao gồm dịch vụ tài chính, bất động sản, và các ngành công nghiệp truyền thông. Điều này phần nào giúp nền kinh tế được phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây.Phần lớn tập trung ở các trung tâm đô thị lớn, đặc biệt là TorontoCalgary xem các ngân hàngCanada.

Lĩnh vực giáo dụcy tế là hai lĩnh vực lớn nhất của Canada, nhưng cả hai là phần lớn dưới quyền hạn của Chính phủ. Việc chăm sóc y tế ngành công nghiệp đã được phát triển nhanh chóng, và là lớn thứ ba ở Canada. Tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của nó đã dẫn đến vấn đề cho chính phủ là phải tìm những người cung cấp tiền quỹ cho nó.

Canada có một phần quan trọng là ngành công nghiệp công nghệ cao, và cũng có thể tạo ra một ngành công nghiệp có nội dung giải trí cung cấp cho trong nước và quốc tế tiêu thụ. Ngành du lịch ở Canada có tầm quan trọng ngày càng tăng, với phần lớn các du khách quốc tế đến từ Hoa Kỳ. Mặc dù gần đây sức mạnh của đồng Dollar Canada đã kém ở khu vực này, các nước như Trung Quốc đã tăng lên số lượng người du lịch đến Canada .

Vấn đề chính trị

Khu vực imbalances

Nền kinh tế Canada khác nhau rất nhiều từ khu vực này đến khu vực khác.Theo truyền thống trung tâm Canada đã có những động cơ kinh tế của Canada, nhà cho hơn một nửa dân số của nó và nhiều ngành công nghiệp của nó.Trong những năm gần đây đã cho thấy tốc độ tăng trưởng nhanh chóng tại phía tây Canada như thương mại với Châu Á đã làm phong phú cho British Columbia và sự giàu có tăng lên do được cung cấp dầu mỏ của AlbertaSaskatchewan.

Bốn địa phương ở Atlantic ,mặc dù là một trung tâm của hoạt động kinh tế, trải qua một từ chối lớn vào cuối thế kỷ 19 và có truyền thống nghèo khó đáng kể hơn phần còn lại của Canada , đặc biệt là sau khi sụp đổ gần đây của các ngành công nghiệp đánh bắt cá. Những năm gần đây đã thấy một số đáng kể di chuyển theo hướng đa dạng hoá, đặc biệt là dầu khí ở ngoài khơi đã bắt đầu vào dòng chảy của khu vực. Quebec cũng là vùng có truyền thống nghèo ở Canada mặc dù trung bình của số dư tiêu dùng ít hơn các địa phương thuộc Atlantic.Trong những năm gần đây Newfoundland and Labrador đã bắt đầu cho thấy một thay đổi trong nền kinh tế của họ, được gọi là "hổ Celtic của Canada"( trong một so sánh với kinh tế chuyển đổi ở Ai-len); nó cũng đã được gọi là "nhỏ Alberta" bởi vì đó là khu thăm dò dầu khí mới,mặc dù nhiều người trẻ ở Newfoundland di trú sang Alberta để nhận tiền cao hơn cho công việc.

Mối quan hệ với Hoa Kỳ

CanadaHoa Kỳ chia sẻ một mối quan hệ sâu và rộng về kinh doanh. Thị trường việc làm của Canada tiếp tục hợp tác tốt cùng với Hoa Kỳ, tháng mười hai 2006 tỷ lệ thất nghiệp đạt thấp trong 30 năm qua, sau 14 năm liền tăng trưởng của việc làm.[18] Tranh chấp thương mại Thuế, nhiều phần hành động quân sự và pháp luật của Canada có thể tranh luận chẳng hạn như cùng giới tính kết hôn,quyền lợi người khuyết tật, phân biệt chủng tộc, luật di trú và hợp pháp hóa y tế cần sa ,đã làm nguội các mối quan hệ vốn căng thẳng giữa hai quốc gia.

Mặc dù có những sự khác biệt, thì Hoa Kỳ vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Canada , với hơn $1.7 tỷ đồng CAD trong thương mại mỗi ngày trong năm 2005. Có 81% của Canada xuất khẩu vào Hoa Kỳ và 67% của Canada được nhập khẩu từ Hoa Kỳ. [19] Thương mại với Canada đã chiếm 23% về xuất khẩu của Hoa Kỳ và 17% số hàng nhập khẩu.[20] Bằng cách so sánh, trong năm 2005 này Canada đã được nhiều hơn từ thương mại với Hoa Kỳ so với tất cả các quốc gia trong các Liên Minh Châu Âu kết hợp lại ,[21] và cũng hơn hai lần thương mại giữa Hoa Kỳ với tất cả các quốc gia có Mỹ Latin kết hợp lại .[22] Just the Chỉ là thương mại hai chiều qua đó các Ambassador Bridge giữa MichiganOntario bằng tất cả Hoa Kỳ xuất khẩu vào Nhật Bản.

Tầm quan trọng của Canada với Hoa Kỳ không chỉ là một biên giới giữa hai nhà nước : Canada là đối tác hàng đầu thị trường xuất khẩu cho 35 / 50 tiểu bang Hoa Kỳ,và Hoa Kỳ là nước ngoài lớn nhất của nhà cung cấp năng lượng Canada.

Thương mại song phương tăng 52% vào giữa năm 1989, khi Hiệp định Thương mại tự do (FTA)Hoa Kỳ-Canada đi vào hiệu lực, và năm 1994, trong khi Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) superseded it. [cần dẫn nguồn] Thương mại đã tăng từ 40%. NAFTA tiếp tục các FTA bằng việc di chuyển về hướng giảm dần các rào cản thương mại và thành lập sau khi thoả thuận thương mại quy định. Nó cũng giải quyết một số lâu dài song phương irritants và các quy tắc liberalizes ở một số khu vực, bao gồm cả nông nghiệp, dịch vụ, năng lượng, dịch vụ tài chính, đầu tư và mua sắm của chính phủ. NAFTA là hình thức kinh doanh lớn nhất khu vực trên thế giới,với trên 406 triệu người dân của ba nước Bắc Mỹ. Các thành phần lớn nhất của thương mại Hoa Kỳ-Canada là trong lĩnh vực hàng hoá.

Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu nông nghiệp lớn nhất của Canada,tiêu thụ hơn một nửa của tất cả các thực phẩm xuất khẩu của Canada.[23] Tương tự như vậy, Canada là thị trường lớn nhất của Hoa Kỳ dành cho hàng hóa nông nghiệp với gần 20% số thực phẩm của người Mỹ xuất khẩu đi các phía Bắc của nước hàng xóm. Gần hai phần ba sản phẩm của Canada là từ rừng, bao gồm cả bột giấy và giấy, được xuất khẩu vào Hoa Kỳ; 72% tổng số giấy báo in của Canada sản xuất cũng đã được xuất khẩu vào Hoa Kỳ. At $73.6 tỷ đồng trong năm 2004, thương mại của Hoa Kỳ-Canada về năng lượng là năng lực kinh tế lớn nhất của Hoa Kỳ trong mối quan hệ thương mại, với hơn($ 66,7 tỷ đồng) đang được xuất khẩu từ Canada.Thành phần chính thương mại về năng lượng của Hoa Kỳ với Canada là dầu, khí đốt tự nhiênđiện.Canada là nhà cung cấp dầu lớn nhất của Hoa Kỳ và đứng thứ năm về sản xuất năng lượng trong những quốc gia sản xuất năng lượng lớn nhất trên thế giới. Canada cung cấp cho khoảng 16% dầu nhập khẩu của Hoa Kỳ và 14% tổng số khí tự nhiên tiêu thụ của Hoa Kỳ.Mạng lưới điện quốc gia của CanadaHoa Kỳđược liên kết với nhau và cả hai quốc gia chia sẻ các thiết bị thủy điện trên miền Tây biên giới.

Trong khi hầu hết các doanh nghiệp Hoa Kỳ-Canada thông suốt, đôi khi có những tranh chấp thương mại song phương, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệpvăn hóa. Thông thường những vấn đề này đã giải quyết được thông qua các diễn đàn song phương tư vấn hoặc giới thiệu đến Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hoặc Nafta giải quyết tranh chấp. Trong tháng năm năm 1999, Hoa Kỳ và chính phủ Canada đã thương lượng một thỏa thuận trên tạp chí cung cấp tăng quyền truy cập cho ngành công nghiệp Hoa Kỳ xuất bản vào thị trường Canada.

Hoa KỳCanada cũng có một số các vấn đề liên quan đến thủy sản đã giải quyết . Bởi thỏa thuận thông thường, hai nước đã gửi một báo cáo về vịnh Maine là ranh giới tranh chấp lên Tòa án Tư pháp Quốc tế năm 1981; cả hai được chấp nhận của Toà án vào 12 tháng mười 1984 nguyên tắc chia các ranh giới lãnh thổ biển. Một vấn đề hiện nay giữa Hoa Kỳ và Canada tiếp tục là chế biến gỗ mềm,như Hoa Kỳ là Canada alleges oan subsidizes các ngành công nghiệp lâm nghiệp.

Trong năm 1990, Hoa KỳCanada đã ký một thỏa thuận song phương về thuỷ sản, đã phục vụ cho hoạt động ngăn chặn đánh bắt cá bất hợp pháp và giảm nguy cơ bị thương trong quá trình thực thi cứu giúp sự cố thủy sản.Hoa KỳCanada đã ký một thoả thuận cá hồi Thái Bình Dương trong tháng sáu 1999 là ổn định qua việc triển khai thực hiện những sự khác biệt của Thái Bình Dương vào năm 1985 Hiệp ước cá hồi cho thập kỷ tới.

CanadaHoa Kỳ đã ký một thỏa thuận hàng không trong thời gian Bill Clinton thăm Canada vào tháng hai năm 1995, và giao thông hàng không giữa hai nước đã tăng lên đáng kể như là một kết quả.Hai nước cũng chia sẻ trong hoạt động của St Lawrence Seaway, kết nối các Great Lakes đến Đại Tây Dương.

Hoa Kỳ là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất của Canada ; vào cuối năm 1999, các cổ phiếu của Hoa Kỳ đầu tư trực tiếp đã được ước tính $ 116,7 tỷ đồng, hoặc về 72% của tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Canada. Hoa Kỳ đầu tư chủ yếu ở Canada của mỏ và các ngành công nghiệp smelting,xăng dầu, hóa chất, sản xuất máy móc và thiết bị giao thông vận tải, và tài chính. Canada là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ ba tại Hoa Kỳ. Vào cuối năm 1999, các cổ phiếu của Canada đầu tư trực tiếp tại Hoa Kỳ đã được ước tính $ 90,4 tỷ đồng. Canada đầu tư tại Hoa Kỳ là tập trung vào sản xuất, kinh doanh bán buôn, bất động sản, dầu khí, tài chính, và bảo hiểm và các dịch vụ khác.

Thu nhập trung bình của hộ gia đình

Một chuẩn bị báo cáo hàng quý của các Economist Intelligence Unit thay mặt Barclays Wealth dự kiến trong năm 2007 đã có 1.100.000 triệu đôla Mỹ ở Canada(page 7).

Hiệp định Thương mại tự do

(source: DFAIT)

Nations that have Free Trade Agreements with Canada are in dark blue, nations in negotiations are in cyan. Canada is green.

Canada is negotiating bilateral FTAs with the following countries and trade blocs:

Canada is also involved in negotiations to create the following regional trade blocks:

Xem thêm

Liên kết

Chú thích

[25]

  1. ^ “Canadian economic accounts”. The Daily. Statistics Canada. 2 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2009.
  2. ^ “2006/2007/2008 GDP”. IMF.
  3. ^ “2006 GDP figures” (PDF). world bank.
  4. ^ “Actual hours worked per week by industry, seasonally adjusted (monthly)”. Statistics Canada.
  5. ^ List of countries by economic freedom
  6. ^ Central Intelligence Agency (16 tháng 5 năm 2006). “The World Factbook: Canada”. Central Intelligence Agency. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2007.
  7. ^ Statistics Canada (4 tháng 8 năm 2006). “Latest release from Labour Force Survey”. Statistics Canada. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2006.
  8. ^ forbes (2 tháng 4 năm 2008). “Latest release”. forbes. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2006.
  9. ^ “Imports, exports and trade balance of goods on a balance-of-payments basis, by country or country grouping”. Statistics Canada.
  10. ^ “2006 exports/imports”.
  11. ^ Howlett, Michael and M. Ramesh. Political Economy of Canada: An Introduction. Toronto: McClelland and Stewart, 1992.
  12. ^ Environment Canada - Energy Consumption
  13. ^ Canada vs. The OECD: An Environmental Comparison
  14. ^ The Relative Position of Canada in the World Grain Market
  15. ^ Canada's Domestic Agricultural Supports and the World Trade Organization
  16. ^ CIA World Factbook - Canada
  17. ^ Wallace, Iain, A Geography of the Canadian Economy. Don Mills: Oxford University Press, 2002.
  18. ^ The Daily, Friday, January 5, 2007. Labour Force Survey
  19. ^ Imports, exports and trade balance of goods on a balance-of-payments basis, by country or country grouping
  20. ^ FTD - Statistics - Trade Highlights - Top Trading Partners
  21. ^ FTD - Statistics - Country Data - U.S. Trade Balance with European Union
  22. ^ FTD - Statistics - Country Data - U.S. Trade Balance with South and Central America
  23. ^ Agriculture and Agri-Food Canada / Agriculture et Agroalimentaire Canada
  24. ^ http://www.theglobeandmail.com/servlet/story/RTGAM.20090427.wfreetrade0427/BNStory/National/home
  25. ^ There is an apparent discrepancy between the factbook's 65.4% of GDP estimate for Canada's debt in 2006 [1], and the 30.2% trumpeted by the Canadian government at [2]. Both numbers are correct. The reason is that the Canadian government uses the OECD's net financial liabilities, while the CIA World Factbook uses a different measure of financial liabilities. The OECD itself reports the gross number as 68%, and the net number as 30.2% [3]. The net number places Canada as one of the least indebted G8 countries, while the gross number is less flattering.

Tài liệu tham khảo

  • Howlett, Michael and M. Ramesh. Political Economy of Canada: An Introduction. Toronto: McClelland and Stewart, 1992.
  • Wallace, Iain, A Geography of the Canadian Economy. Don Mills: Oxford University Press, 2002.
  •  Bài viết này kết hợp các tài liệu thuộc phạm vi công cộng từ website hay thư mục thuộc CIA World Factbook.

Bản mẫu:Canada topic Bản mẫu:Canada topics