Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tị nạn”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 17: Dòng 17:


===Nam Á===
===Nam Á===
Cũng sau khi Đệ nhị Thế chiến kết thúc, Đế quốc Anh tuyên bố giải thể [[Ấn Độ thuộc Anh|thuộc địa Ấn Độ]] và chia xứ đó thành [[Ấn Độ]] và [[Hồi Quốc]] vì lý do tôn giáo. Hàng chục triệu người phải di cư: dân [[đạo Hồi]] bỏ sang Hồi Quốc và dân [[đạo Ấn]] tràn sang Ấn Độ, tổng cộng ước đoán là 10 đến 12 triệu (có thể lên đến 20 triệu) vượt biên giới để chọn xứ sở mới.<ref>[http://www.globalsecurity.org/military/world/war/indo-pak-partition2.htm India-Pakistan Partition]</ref>
Cũng sau khi Đệ nhị Thế chiến kết thúc, Đế quốc Anh tuyên bố giải thể [[Ấn Độ thuộc Anh|thuộc địa Ấn Độ]] và chia xứ đó thành [[Ấn Độ]] và [[Hồi Quốc]] vì lý do tôn giáo. Hàng chục triệu người phải di cư: dân [[đạo Hồi]] bỏ sang Hồi Quốc và dân [[đạo Ấn]] tràn sang Ấn Độ, tổng cộng ước đoán là 10 đến 12 triệu (có thể lên đến 20 triệu) vượt biên giới năm 1947 để chọn xứ sở mới.<ref>[http://www.globalsecurity.org/military/world/war/indo-pak-partition2.htm India-Pakistan Partition]</ref>


===Chiến tranh Việt Nam===
===Chiến tranh Việt Nam===

Phiên bản lúc 19:11, ngày 20 tháng 11 năm 2014

Tỵ nạn hay tị nạn là một trường hợp phải chạy trốn qua một xứ khác, nơi khác để thoát cảnh hiểm nguy, ngược đãi, hoặc bắt bớ bởi một quyền lực ở chốn cư ngụ. Người tỵ nạn là người thực hiện hành động tỵ nạn (tránh nạn) đó.

Lịch sử

Dân tỵ nạn Nga năm 1942 trong trận Stalingrad thời Đệ nhị Thế chiến

Khái niệm tỵ nạn đã có từ thời cổ đại khi người chạy trốn có thể tìm đến nơi thần quyền như ở một ngôi đền để lánh nạn mà không bị bắt. Thời Trung cổ, ở châu Âu cũng ghi nhận có một số luật lệ quy định quyền lánh nạn ở chốn tôn nghiêm thờ phụng.

Trong sử Việt thì có chép việc vua Lý Huệ Tông sau khi nhường ngôi cho con là Công chúa Chiêu Thánh và rồi nhà Lý mất ngôi về tay nhà Trần thì cựu hoàng Huệ Tông vào tu ở chùa Chân Giáo để tránh sự phiền nhiễu chính trị. Tuy không bị bắt, Huệ Tông cũng bị Trần Thủ Độ làm áp lực tinh thần và phải treo cổ tự vẫn, hưởng dương 33 tuổi.

Qua nhiều thế kỷ, lịch sử từng ghi những đợt di dân để lánh nạn như vào năm 1685 ở PhápSắc lệnh Fontainebleau (Édit de Fontainebleau) khi vua Louis XIV xuống chiếu cấm đạo Tin Lành khiến hàng trăm nghìn giáo dân Huguenot phải bỏ quê hương trốn sang các nước Anh, Thụy Sĩ, Hà Lan, Đức, v.v. Ở Đông Âu thì có những đợt cấm đạo Do Thái làm hơn hai triệu dân đạo ở Nga phải bỏ chạy vào những thập niên cuối thế kỷ 19.

Tổ chức đầu tiên lập ra để đối phó với vấn đề tỵ nạn là Cao ủy Tỵ nạn của Hội Quốc Liên vào năm 1921. Cuộc nội chiến ở Nga ngay sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917 đã tạo ra khoảng một triệu rưởi dân Nga bỏ nước để tránh chính quyền Cộng sản. Năm 1923 thì Cao ủy lãnh thêm nhiệm vụ cứu trợ dân Armenia ở Tiểu Á trong cuộc thanh trừng diệt chủng của Thổ Nhĩ Kỳ.

Đệ nhị Thế chiến

Đệ nhị Thế chiến đánh dấu một bước rẽ với con số dân tỵ nạn lên cao và ảnh hưởng một vùng rộng lớn. Năm 1943 phe Đồng Minh cho thành lập Quyền vụ Cứu trợ và Phục hồi Liên quốc (United Nations Relief and Rehabilitation Administration, UNRAA) để giúp ổn định những khu vực mới được giải phóng khỏi vòng kiểm soát của phe Trục (đệ nhị thế chiến). Công tác này bao gồm việc định cư hơn bảy triệu dân sơ tán nay cần được hồi hương. Số khoảng một triệu người không muốn hồi hương thì cần trại tạm trú.

Hội nghị Potsdam năm 1945 cũng hoạch định lại biên giới ở Âu châu khiến 15 triệu dân Đức bỗng nhiên thuộc thẩm quyền của nhà chức trách mới của Ba Lan, Tiệp Khắc, và Hung Gia Lợi. Trong khi đó Hội nghị Yalta có ghi điều kiện buộc hồi hương hàng triệu dân Nga về Liên Xô.[1]

Nam Á

Cũng sau khi Đệ nhị Thế chiến kết thúc, Đế quốc Anh tuyên bố giải thể thuộc địa Ấn Độ và chia xứ đó thành Ấn ĐộHồi Quốc vì lý do tôn giáo. Hàng chục triệu người phải di cư: dân đạo Hồi bỏ sang Hồi Quốc và dân đạo Ấn tràn sang Ấn Độ, tổng cộng ước đoán là 10 đến 12 triệu (có thể lên đến 20 triệu) vượt biên giới năm 1947 để chọn xứ sở mới.[2]

Chiến tranh Việt Nam

Hậu quả cuộc chiến khi lực lượng cộng sản chiếm được Miền Nam vào Tháng 4, 1975 là hàng trăm ngàn người dân Miền Nam tìm cách vượt thoát. Số đầu tiên do quân đội Hoa Kỳ cứu vớt. Tiếp theo là hàng loạt người tẩu thoát bằng đường biển và đường bộ suốt thập niên 1980 lên hơn một triệu người. Tình hình tương tự ở LàoCao Miên cũng mở đầu cho hàng trăm ngàn người trốn tránh chính sách áp bức của chính quyền vượt sang Thái Lan.

Xem thêm

Chú thích