Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tsagaan Sar”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n Đã lùi lại sửa đổi của Hyperion1992 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của AlphamaBot4
Dòng 8: Dòng 8:
[[Ẩm thực Mông Cổ|Món ăn truyền thống]] của ngày tết bao gồm các sản phẩm bơ sữa, cơm với sữa đông (tsagaa-цагаа) hay cơm với nho khô (berees-бэрээс), một [[kim tự tháp]] gồm các bánh buuz được dựng thẳng trong một đĩa lớn theo một kiểu dáng đặc biệt nhằm tượng trưng cho [[Tu Di Sơn]] (núi Sumeru) hay vương quốc [[Shambhala]], thịt ngựa và các loại bánh truyền thống.<ref>Kohn, Michael. ''[[Lonely Planet]] Mongolia''. Lonely Planet, 2008, ISBN 978-1-74104-578-9, p. 44</ref> Tsagaan Sar là một bữa tiệc hào phóng, cần đến vài ngày chuẩn bị trước, người phụ nữ trong gia đình sẽ làm một lượng lớn và làm lạnh chúng để dùng trong kỳ nghỉ.<ref name=mntoday/>
[[Ẩm thực Mông Cổ|Món ăn truyền thống]] của ngày tết bao gồm các sản phẩm bơ sữa, cơm với sữa đông (tsagaa-цагаа) hay cơm với nho khô (berees-бэрээс), một [[kim tự tháp]] gồm các bánh buuz được dựng thẳng trong một đĩa lớn theo một kiểu dáng đặc biệt nhằm tượng trưng cho [[Tu Di Sơn]] (núi Sumeru) hay vương quốc [[Shambhala]], thịt ngựa và các loại bánh truyền thống.<ref>Kohn, Michael. ''[[Lonely Planet]] Mongolia''. Lonely Planet, 2008, ISBN 978-1-74104-578-9, p. 44</ref> Tsagaan Sar là một bữa tiệc hào phóng, cần đến vài ngày chuẩn bị trước, người phụ nữ trong gia đình sẽ làm một lượng lớn và làm lạnh chúng để dùng trong kỳ nghỉ.<ref name=mntoday/>


Trong [[Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ|thời kỳ Mông Cổ cộng sản]], chính phủ đã ngăn cấm Tsagaan Sar và cố gắng thay thế lễ này bằng một ngày nghỉ lễ được gọi là "Ngày Mục dân Tập thể", song người ta đã lại tổ chức lễ Tsagaan Sar sau [[Cách mạng Dân chủ Mông Cổ 1990]].<ref>Marsh, Peter. ''The horse-head fiddle and the cosmopolitan reimagination of tradition of Mongolia''. Routledge, 2009, ISBN 978-0-415-97156-0, p. 136</ref>



==Tham khảo==
==Tham khảo==

Phiên bản lúc 11:33, ngày 20 tháng 2 năm 2015

Bữa tiệc Tsagaan Sar

Tết Âm lịch Mông Cổ, thường được gọi là Tsagaan Sar (tiếng Mông Cổ: Цагаан сар; hoặc theo nghĩa đen Trăng Trắng) là ngày đầu tiên trong năm theo âm lịch Mông Cổ. Người Mông Cổ khi đó sẽ tổ chức lễ hội đánh dấu tết Âm lịch. Lễ hội Trăng trắng được tổ chức một tháng sau ngày trăng mới đầu tiên sau Đông chí (vào khoảng tháng Một hay tháng Hai dương lịch). Tsagaan Sar là một trong các ngày nghỉ quan trọng nhất đối với người Mông Cổ.[1] Người Duy Ngô Nhĩ tiếp thu lịch Trung Hoa, người Mông Cổ và Tạng lại tiếp thu lịch Duy Ngô Nhĩ.[2]. Tsagaan Sar trùng thời điểm với Tết Nguyên đánTrung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên.[3] Tsagaan Sar được tổ chức trong ba ngày đầu tiên của tháng âm lịch đầu tiên.

Ngày trước Tsagaan Sar được gọi là Bituun, tức là hối (晦). Các pha trăng âm lịch gồm sóc (朔, 1), huyền (8 & 23), vọng (望, 15) và hối (晦, 30). Vào ngày hối, người dân dọn dẹp kỹ lưỡng quanh nhà, những người chăn gia súc cũng dọn dẹp chuồng và hầm, để đón năm mới một cách sạch sẽ. Lễ tất niên cũng có hoạt động thắp nến để tượng trưng giác ngộ về luân hồi và tất cả chúng sinh, họ cũng đặt ba mảnh băng ở ô cửa để con ngựa của vị thần Cát Tường Thiên Mẫu (Palden Lhamo) có thể uống vì họ tin vị thần này sẽ viếng thăm mỗi gia đình trong ngày này. Trong buổi tối, các gia đình quây quần bên nhau, thường là với gia đình láng giềng,[4] họ sẽ tiễn đưa năm cũ, ăn các sản phẩm bơ sữa và bánh buuz. Theo truyền thống, người Mông Cổ sẽ giải quyết tất cả các vấn đề và trả tất cả các khoản nợ từ năm cũ vào ngày này.[4]

Khoảng thời gian Tết, các gia đình sẽ thắp nến ở bàn thờ để tượng trưng cho giác ngộ. Ngoài ra, mọi người chào hỏi nhau bằng những câu nói đặc trưng, họ cũng viếng thăm bạn bè và gia đình trong ngày này và trao nhận các món quà. Một gia đình Mông Cổ điển hình sẽ quây quần tại nơi ở của người nhiều tuổi nhất trong gia đình.[4] Trong thời gian Tết, trang phục của nhiều người Mông Cổ sẽ hoàn toàn là trang phục dân tộc Mông Cổ. Khi chào hỏi những người lớn tuổi trong lễ Trăng trắng, người Mông Cổ sẽ thực hiện lời chúc zolgokh, dùng khuỷu tay của mình để ôm chặt lấy những người cao tuổi nhằm thể hiện sự ủng hộ. Người lớn tuổi nhận được những lời chúc từ mỗi thành viên trong gia đình ngoại trừ người phối ngẫu của họ.[4] Trong nghi lễ chúc mừng, các thành viên trong gia đình giữ các mảnh vải lụa, dài, thường có màu lam, gọi là khadag.[1] Sau nghi lễ, đại gia đình ăn các món đuôi cừu, thịt cừu, cơm với sữa đông, các sản phẩm bơ sữa, và một loại bánh hấp gọi là buuz, uống airag.

Món ăn truyền thống của ngày tết bao gồm các sản phẩm bơ sữa, cơm với sữa đông (tsagaa-цагаа) hay cơm với nho khô (berees-бэрээс), một kim tự tháp gồm các bánh buuz được dựng thẳng trong một đĩa lớn theo một kiểu dáng đặc biệt nhằm tượng trưng cho Tu Di Sơn (núi Sumeru) hay vương quốc Shambhala, thịt ngựa và các loại bánh truyền thống.[5] Tsagaan Sar là một bữa tiệc hào phóng, cần đến vài ngày chuẩn bị trước, người phụ nữ trong gia đình sẽ làm một lượng lớn và làm lạnh chúng để dùng trong kỳ nghỉ.[4]

Trong thời kỳ Mông Cổ cộng sản, chính phủ đã ngăn cấm Tsagaan Sar và cố gắng thay thế lễ này bằng một ngày nghỉ lễ được gọi là "Ngày Mục dân Tập thể", song người ta đã lại tổ chức lễ Tsagaan Sar sau Cách mạng Dân chủ Mông Cổ 1990.[6]

Tham khảo

  1. ^ a b "Tsagan Sar: The Mongolian Lunar New Year". Mongoluls. 2007. ngày 13 tháng 3 năm 2008. Mongoluls.net
  2. ^ Ligeti, Louis (1984). Tibetan and Buddhist Studies: Commemorating the 200th Anniversary of the Birth of Alexander Csoma De Koros, Volume 2. University of California Press. tr. 344. ISBN 9789630535731.
  3. ^ Thanh Hà. “Cùng các nước châu Á đón Tết Nguyên đán”. Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2013. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  4. ^ a b c d e "Tsagaan Sar, the Lunar New Year"
  5. ^ Kohn, Michael. Lonely Planet Mongolia. Lonely Planet, 2008, ISBN 978-1-74104-578-9, p. 44
  6. ^ Marsh, Peter. The horse-head fiddle and the cosmopolitan reimagination of tradition of Mongolia. Routledge, 2009, ISBN 978-0-415-97156-0, p. 136