Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bàng Bá Lân”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 19: Dòng 19:


==Tiểu sử==
==Tiểu sử==
Bàng Bá Lân nguyên ở làng Đôn Thư, tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, tỉnh [[Hà Nam]]; nhưng sinh ra ở phố Tân Minh, phủ [[Lạng Thương]], tỉnh [[Bắc Giang]]. Năm 1916-1918, theo cha mẹ lên sống ở Vôi rồi ở Kép, tỉnh Bắc Giang. Năm 1920-1928, sống với bà nội ở Đôn Thư, sau đó lại về Kép; học trường tiểu học Pháp-Việt ở Phủ Lý, phủ Lạng thương và đỗ bằng tiểu học Pháp-Việt ở Đáp Cầu. Năm 1929-1933, vào học trường trung học Bảo hộ ([[trường Bưởi]]), đỗ bằng Thành chung. Vì thi Tú tài mấy lần không đỗ, năm 1934 ông về Kép vui thú điền viên, làm thơ, chụp ảnh và xuất bản tập thơ đầu tiên ''Tiếng thông reo''.
'''Bàng Bá Lân''' nguyên ở làng Đôn Thư, tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, tỉnh [[Hà Nam]]; nhưng sinh ra ở phố Tân Minh, [[Phủ Lạng Thương]], tỉnh [[Bắc Giang]].
Năm 1916-1918, theo cha mẹ lên sống ở Vôi rồi ở Kép, tỉnh Bắc Giang.
Năm 1920-1928, sống với bà nội ở Đôn Thư, sau đó lại về Kép; học trường tiểu học Pháp-Việt ở Phủ Lý, phủ Lạng thương và đỗ bằng tiểu học Pháp-Việt ở Đáp Cầu.
Năm 1929-1933, vào học trường trung học Bảo hộ ([[trường Bưởi]]), đỗ bằng Thành chung. Vì thi Tú tài mấy lần không đỗ, năm 1934 ông về Kép vui thú điền viên, làm thơ, chụp ảnh và xuất bản tập thơ đầu tiên ''Tiếng thông reo''.


Trước [[Cách mạng tháng Tám]] ông đã có những tác phẩm: ''Tiếng thông reo'' (1934), ''Xưa'' (hợp tác với Anh Thơ, 1941), ''Tiếng sáo diều'' (1939-1945).
Trước [[Cách mạng tháng Tám]] ông đã có những tác phẩm: ''Tiếng thông reo'' (1934), ''Xưa'' (hợp tác với Anh Thơ, 1941), ''Tiếng sáo diều'' (1939-1945).
Dòng 31: Dòng 37:
Trong lãnh vực [[nhiếp ảnh]], Bàng Bá Lân cũng tỏ ra là một người có tài năng. Ông từng đoạt những giải thưởng, như: Giải Agfa-Việt báo (Hà Nội, 1937), giải nhì cuộc thi ảnh tạo phủ Thống sứ Bắc kỳ (1938), huy chương của ''La Revue Francaise de Photographie et de Cinématographie'' (tạp chí nhiếp ảnh và điện ảnh Pháp) ở [[Paris]] (1939), giải thưởng Ferrania (1953); giải thưởng Triển lãm Tuần lễ Văn nghệ Sài Gòn (1955)...
Trong lãnh vực [[nhiếp ảnh]], Bàng Bá Lân cũng tỏ ra là một người có tài năng. Ông từng đoạt những giải thưởng, như: Giải Agfa-Việt báo (Hà Nội, 1937), giải nhì cuộc thi ảnh tạo phủ Thống sứ Bắc kỳ (1938), huy chương của ''La Revue Francaise de Photographie et de Cinématographie'' (tạp chí nhiếp ảnh và điện ảnh Pháp) ở [[Paris]] (1939), giải thưởng Ferrania (1953); giải thưởng Triển lãm Tuần lễ Văn nghệ Sài Gòn (1955)...


Các tác phẩm nhiếp ảnh của ông từng được triển lãm ở Hội quán [[Trí tri|Hội Trí tri]], Hà Nội (1939); [[Bologna]], [[Ý]] (1952); [[Antwerpen]], [[Bỉ]] (1953); [[Paris]], [[Pháp]] (1953); [[Singapore]] (1953); [[Cuba]] (1954); [[Rochester]], [[Mỹ]] (1956)...
Các tác phẩm nhiếp ảnh của ông từng được triển lãm ở Hội quán [[Trí tri|Hội Trí tri]], (Hà Nội, 1939); [[Bologna]], [[Ý]] (1952); [[Antwerpen]], [[Bỉ]] (1953); [[Paris]], [[Pháp]] (1953); [[Singapore]] (1953); [[Cuba]] (1954); [[Rochester]], ([[Mỹ]], 1956)...


Ông mất tại Tp. Hồ Chí Minh.
Năm 1988, Bàng Bá Lân mất tại [[Thành phố Hồ Chí Minh]].


== Đôi nét về văn nghiệp==
== Đôi nét về văn nghiệp==


Trong ''Thi nhân Việt Nam'', [[Hoài Thanh]] và [[Hoài Chân]] đã nhận xét về thơ của ông như sau:
[[Hoài Thanh]] và [[Hoài Chân]] nhận xét về thơ ông như sau:
:''Đồng quê xứ Bắc đã gây cảm hứng cho nhiều nhà thơ. Nhưng mỗi nhà thơ xúc cảm một cách riêng. [[Nguyễn Bính]] nhà quê hơn cả nên chỉ ưa sống trong tình quê mà ít để ý đến cảnh quê. [[Anh Thơ]] không nhà quê tí nào, Anh Thơ là một người thành thị đi du ngoạn nên chỉ thấy cảnh quê. Bàng Bá Lân gần Anh Thơ hơn gần Nguyễn Bính. Nhưng người hiểu cảnh quê hơn Anh Thơ; hiểu hơn vì mến hơn. Thơ Bàng Bá Lân và "Bức tranh quê" đều là những bông hoa khả ái từ xa mới về, nhưng bông hoa Bàng Bá Lân ra chiều thuộc thuỷ thổ hơn. Cho nên sắc hương của nó cũng khác.''

:''Bàng Bá Lân không có cái tỉ mỉ của Anh Thơ, không nhìn đủ hình dáng đời quê như Anh Thơ. Anh Thơ có khi nhìn cảnh không mến cảnh, Bàng Bá Lân có khi lại mến cảnh quên nhìn, nhưng đã lưu ý đến cảnh nào, Bàng Bá Lân thường lưu luyến cấnh ấy. Như khi người ta tả một buổi sáng:''
"Đồng quê xứ Bắc đã gây cảm hứng cho nhiều nhà thơ. Nhưng mỗi nhà thơ xúc cảm một cách riêng. [[Nguyễn Bính]] nhà quê hơn cả nên chỉ ưa sống trong tình quê mà ít để ý đến cảnh quê. [[Anh Thơ]] không nhà quê tí nào, Anh Thơ là một người thành thị đi du ngoạn nên chỉ thấy cảnh quê. Bàng Bá Lân gần Anh Thơ hơn gần Nguyễn Bính. Nhưng người hiểu cảnh quê hơn Anh Thơ; hiểu hơn vì mến hơn. Thơ Bàng Bá Lân và "Bức tranh quê" đều là những bông hoa khả ái từ xa mới về, nhưng bông hoa Bàng Bá Lân ra chiều thuộc thuỷ thổ hơn. Cho nên sắc hương của nó cũng khác."

''Bàng Bá Lân không có cái tỉ mỉ của Anh Thơ, không nhìn đủ hình dáng đời quê như Anh Thơ. Anh Thơ có khi nhìn cảnh không mến cảnh, Bàng Bá Lân có khi lại mến cảnh quên nhìn, nhưng đã lưu ý đến cảnh nào, Bàng Bá Lân thường lưu luyến cấnh ấy. Như khi người ta tả một buổi sáng:''


:''Cổng làng rộng mở. Ồn ào
:''Cổng làng rộng mở. Ồn ào
:Nông phu lững thững đi vào nắng mai…''
:''Nông phu lững thững đi vào nắng mai…''


…Bởi thế có lúc người đã cảm được hồn quê vẫn bàng bạc sau cảnh vật. Tôi không biết làm thế nào nói cho ra điều này. Âu là cứ trích ít câu thơ của Bàng Bá Lân:
:...''Bởi thế có lúc người đã cảm được hồn quê vẫn bàng bạc sau cảnh vật. Tôi không biết làm thế nào nói cho ra điều này. Âu là cứ trích ít câu thơ của Bàng Bá Lân'':


:''Quán cũ nằm lười trong song nắng,
:''Quán cũ nằm lười trong song nắng,
:Bà hàng thưa khách ngả thiu thiu,
:Bà hàng thưa khách ngả thiu thiu,
:Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm...
:Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm...
:Đứng lặng trong mây một cánh diều...''
:Đứng lặng trong mây một cánh diều...''<ref>[[Thi nhân Việt Nam]], NXB Văn học, 1988, tr.175-176.</ref>
:(NXB Văn học, 1988, tr.175-176)"


Trong ''Thi nhân tiền chiến,'' [[Nguyễn Tấn Long]] cũng có nhận xét tương tự:
Trong ''Thi nhân tiền chiến,'' [[Nguyễn Tấn Long]] có nhận xét tương tự:


"Thi sĩ Bàng Bá Lân là một nhà thơ đồng quê nổi tiếng, thường ghi lại những nếp sinh hoạt của người dân miền thôn dã. Một buổi chiều mùa hạ, cảnh hoàng hôn vào độ cuối thu, một miền đất Cà Mau trù phú, một đế đô Hà Nội mến yêu vv…là đề tài chính của thi sĩ nên được giới yêu thơ tặng cho danh hiệu “ nhà thơ của đồng áng”, thiết tưởng không có gì quá đáng.”(''Quyển thượng, NXB Sống Mới, Sài Gòn, năm 1968, tr.716)"''
:''Thi sĩ Bàng Bá Lân là một nhà thơ đồng quê nổi tiếng, thường ghi lại những nếp sinh hoạt của người dân miền thôn dã. Một buổi chiều mùa hạ, cảnh hoàng hôn vào độ cuối thu, một miền đất Cà Mau trù phú, một đế đô Hà Nội mến yêu vv…là đề tài chính của thi sĩ nên được giới yêu thơ tặng cho danh hiệu “ nhà thơ của đồng áng”, thiết tưởng không có gì quá đáng.''<ref>''Thi nhân tiền chiến'', quyển thượng, NXB Sống Mới, Sài Gòn, năm 1968, tr.716.</ref>


Gần đây hơn, Thái Tú Hạp trong ''Bàng Bá Lân và bản giao hưởng số 6'', đã viết rằng:
Gần đây hơn, Thái Tú Hạp trong ''Bàng Bá Lân và bản giao hưởng số 6'', viết rằng:


"Những bài thơ mang tính chất mộc mạc, chứa chan hương đồng phấn nội của thi sĩ Bàng Bá Lân đã qua những thử thách trên sáu mươi năm đọc lại vẫn còn mới, nhất là đối với tâm trạng của chúng ta - ''lữ khách ngàn dặm xa cố quận'' - lại càng thắm thiết nồng nàn tình tự quê hương. Có thể những hình ảnh rất đơn sơ tầm thường như:
:''Những bài thơ mang tính chất mộc mạc, chứa chan hương đồng phấn nội của thi sĩ Bàng Bá Lân đã qua những thử thách trên sáu mươi năm đọc lại vẫn còn mới, nhất là đối với tâm trạng của chúng ta - ''lữ khách ngàn dặm xa cố quận'' - lại càng thắm thiết nồng nàn tình tự quê hương. Có thể những hình ảnh rất đơn sơ tầm thường như'':
:Quê tôi có lúa, có dâu
:''Quê tôi có lúa, có dâu
:Có đàn cò trắng, có câu huê tình
:''Có đàn cò trắng, có câu huê tình
:Có cây đa, có mái đình
:''Có cây đa, có mái đình
:Có bầy thôn nữ xinh xinh dịu dàng
:''Có bầy thôn nữ xinh xinh dịu dàng
:Mùa thu có những hội làng
:''Mùa thu có những hội làng
:Có cây đu buổi xuân sang dập dìu...
:''Có cây đu buổi xuân sang dập dìu...
:Gió vi vu tiếng sáo diều
:''Gió vi vu tiếng sáo diều
:Ru hồn mục tử chiều chiều trên đê...
:''Ru hồn mục tử chiều chiều trên đê...''
:( trích ''Quê tôi'', 1957)"
:(trích ''Quê tôi'', 1957)


Và Nguyễn Tấn Long cũng đã cho biết thêm:
Và Nguyễn Tấn Long cũng đã cho biết thêm:


"Ngoài khía cạnh độc đáo nhất của nhà thơ họ Bàng - loại thơ đồng quê. Đến đây chúng tôi xin nói đến phần khác: thi ca tình yêu.
:''Ngoài khía cạnh độc đáo nhất của nhà thơ họ Bàng - loại thơ đồng quê. Đến đây chúng tôi xin nói đến phần khác: thi ca tình yêu. Về loại này, Bàng Bá Lân không có nhiều...Tuy nhiên trong số ít đó,ông cũng tỏ ra có một giọng thơ "mướt" khi tỏ tình yêu, nhưng là thứ tình yêu nhẹ nhàng của người Á Đông, dù yêu tha thiết cũng không bộc lộ sỗ sàng, nó phải là thứ "tình trong như đã mặt ngoài còn e.''<ref>sách đã dẫn, tr.729</ref>
Về loại này, Bàng Bá Lân không có nhiều…Tuy nhiên trong số ít đó,ông cũng tỏ ra có một giọng thơ "mướt" khi tỏ tình yêu, nhưng là thứ tình yêu nhẹ nhàng của người Á Đông, dù yêu tha thiết cũng không bộc lộ sỗ sàng, nó phải là thứ "tình trong như đã mặt ngoài còn e"''(''sách đã dẫn, tr.729)."''
:{| valign="top" width="100%"
:{| valign="top" width="100%"
| width="50%"|
| width="50%"|
:'''Tình trong mưa'''
:'''Tình trong mưa'''


:Chiều ấy, mưa rào ở xóm Đông
:''Chiều ấy, mưa rào ở xóm Đông
:Cho người ủ dột đứng bên song
:''Cho người ủ dột đứng bên song
:Xa nhìn đắm đuối tìm trong gió...
:''Xa nhìn đắm đuối tìm trong gió...
:Chỉ thấy màn mưa trắng ngập đồng.
:''Chỉ thấy màn mưa trắng ngập đồng.''
:Ai biết mưa rơi nói những gì?
:''Ai biết mưa rơi nói những gì?
:Lá buồn gieo lệ khóc lâm ly.
:''Lá buồn gieo lệ khóc lâm ly.
:Lòng bâng khuâng quá, xôn xao nhớ
:''Lòng bâng khuâng quá, xôn xao nhớ
:Cả một tình yêu buổi ấu thì…
:''Cả một tình yêu buổi ấu thì...''
|width="50%"|
|width="50%"|
:Buổi một nàng qua dưới mái hiên
:''Buổi một nàng qua dưới mái hiên
:Đường mưa in một gót chân tiên
:''Đường mưa in một gót chân tiên
:Ta nhìn theo bước đi ren rén
:''Ta nhìn theo bước đi ren rén
:Bỗng cả lòng yêu náo nức liền...
:''Bỗng cả lòng yêu náo nức liền...
:Từ ấy trên đường loang loáng mưa
:''Từ ấy trên đường loang loáng mưa
:Tìm hoài đâu thấy gót chân xưa!
:''Tìm hoài đâu thấy gót chân xưa!
:Đường mưa bao gót chân mưa bước,
:''Đường mưa bao gót chân mưa bước,
:Gợi mãi tình yêu buổi dại khờ!
:''Gợi mãi tình yêu buổi dại khờ!''
:(1942)
:(1942)
|}
|}

Phiên bản lúc 04:04, ngày 2 tháng 7 năm 2009

Bàng Bá Lân
Bàng Bá Lân
Bàng Bá Lân
Sinh1912 hoặc 1913
Bắc Giang, Việt Nam
Mất1988
Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam
Nghề nghiệpNhà thơ, Nhà giáo, Nhà nhiếp ảnh

Bàng Bá Lân tên thật là Nguyễn Xuân Lân (17 tháng 12 năm 1912[1] - 20 tháng 10 năm 1988) là một nhà thơ, nhà giáo, nhà nhiếp ảnh Việt Nam.

Tiểu sử

Bàng Bá Lân nguyên ở làng Đôn Thư, tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; nhưng sinh ra ở phố Tân Minh, Phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang.

Năm 1916-1918, theo cha mẹ lên sống ở Vôi rồi ở Kép, tỉnh Bắc Giang.

Năm 1920-1928, sống với bà nội ở Đôn Thư, sau đó lại về Kép; học trường tiểu học Pháp-Việt ở Phủ Lý, phủ Lạng thương và đỗ bằng tiểu học Pháp-Việt ở Đáp Cầu.

Năm 1929-1933, vào học trường trung học Bảo hộ (trường Bưởi), đỗ bằng Thành chung. Vì thi Tú tài mấy lần không đỗ, năm 1934 ông về Kép vui thú điền viên, làm thơ, chụp ảnh và xuất bản tập thơ đầu tiên Tiếng thông reo.

Trước Cách mạng tháng Tám ông đã có những tác phẩm: Tiếng thông reo (1934), Xưa (hợp tác với Anh Thơ, 1941), Tiếng sáo diều (1939-1945).

Vào Sài Gòn, ông dạy học và cộng tác với nhiều nhật báo, tuần san, bán nguyệt san và xuất bản thêm: Thơ Bàng Bá Lân (1957), Tiếng võng đưa (1957), Để hiểu thơ (1956). Năm 1969, xuất bản các tập truyện: Người vợ câm, Vực xoáy, Gàn bát sách (phiếm luận) và tập thơ Vào thu. Ông cũng cho in hai quyển sách Kỷ niệm văn, thi sĩ hiện đại cùng một số sách Giáo khoa Việt văn cho nhiều cấp lớp.

Ông còn đứng làm chủ bút tập san Bông Lúa vào thập niên 1950 ở Sài Gòn.

Từ 1977 đến 1984, Bàng Bá Lân viết thêm Kỷ niệm văn, thi sĩ hiện đại quyển 3, hồi ký Trọn đời cho thơ (bản thảo đã thất lạc). Ngoài ra, ông còn viết truyện ký danh nhân Anh em Lumière, ông tổ nhiếp ảnh, viết sách bình khảo, dịch truyện, dịch thơ v.v.

Trong lãnh vực nhiếp ảnh, Bàng Bá Lân cũng tỏ ra là một người có tài năng. Ông từng đoạt những giải thưởng, như: Giải Agfa-Việt báo (Hà Nội, 1937), giải nhì cuộc thi ảnh tạo phủ Thống sứ Bắc kỳ (1938), huy chương của La Revue Francaise de Photographie et de Cinématographie (tạp chí nhiếp ảnh và điện ảnh Pháp) ở Paris (1939), giải thưởng Ferrania (1953); giải thưởng Triển lãm Tuần lễ Văn nghệ Sài Gòn (1955)...

Các tác phẩm nhiếp ảnh của ông từng được triển lãm ở Hội quán Hội Trí tri, (Hà Nội, 1939); Bologna, Ý (1952); Antwerpen, Bỉ (1953); Paris, Pháp (1953); Singapore (1953); Cuba (1954); Rochester, (Mỹ, 1956)...

Năm 1988, Bàng Bá Lân mất tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Đôi nét về văn nghiệp

Hoài ThanhHoài Chân nhận xét về thơ ông như sau:

Đồng quê xứ Bắc đã gây cảm hứng cho nhiều nhà thơ. Nhưng mỗi nhà thơ xúc cảm một cách riêng. Nguyễn Bính nhà quê hơn cả nên chỉ ưa sống trong tình quê mà ít để ý đến cảnh quê. Anh Thơ không nhà quê tí nào, Anh Thơ là một người thành thị đi du ngoạn nên chỉ thấy cảnh quê. Bàng Bá Lân gần Anh Thơ hơn gần Nguyễn Bính. Nhưng người hiểu cảnh quê hơn Anh Thơ; hiểu hơn vì mến hơn. Thơ Bàng Bá Lân và "Bức tranh quê" đều là những bông hoa khả ái từ xa mới về, nhưng bông hoa Bàng Bá Lân ra chiều thuộc thuỷ thổ hơn. Cho nên sắc hương của nó cũng khác.
Bàng Bá Lân không có cái tỉ mỉ của Anh Thơ, không nhìn đủ hình dáng đời quê như Anh Thơ. Anh Thơ có khi nhìn cảnh không mến cảnh, Bàng Bá Lân có khi lại mến cảnh quên nhìn, nhưng đã lưu ý đến cảnh nào, Bàng Bá Lân thường lưu luyến cấnh ấy. Như khi người ta tả một buổi sáng:
Cổng làng rộng mở. Ồn ào
Nông phu lững thững đi vào nắng mai…
...Bởi thế có lúc người đã cảm được hồn quê vẫn bàng bạc sau cảnh vật. Tôi không biết làm thế nào nói cho ra điều này. Âu là cứ trích ít câu thơ của Bàng Bá Lân:
Quán cũ nằm lười trong song nắng,
Bà hàng thưa khách ngả thiu thiu,
Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm...
Đứng lặng trong mây một cánh diều...[2]

Trong Thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long có nhận xét tương tự:

Thi sĩ Bàng Bá Lân là một nhà thơ đồng quê nổi tiếng, thường ghi lại những nếp sinh hoạt của người dân miền thôn dã. Một buổi chiều mùa hạ, cảnh hoàng hôn vào độ cuối thu, một miền đất Cà Mau trù phú, một đế đô Hà Nội mến yêu vv…là đề tài chính của thi sĩ nên được giới yêu thơ tặng cho danh hiệu “ nhà thơ của đồng áng”, thiết tưởng không có gì quá đáng.[3]

Gần đây hơn, Thái Tú Hạp trong Bàng Bá Lân và bản giao hưởng số 6, viết rằng:

Những bài thơ mang tính chất mộc mạc, chứa chan hương đồng phấn nội của thi sĩ Bàng Bá Lân đã qua những thử thách trên sáu mươi năm đọc lại vẫn còn mới, nhất là đối với tâm trạng của chúng ta - lữ khách ngàn dặm xa cố quận - lại càng thắm thiết nồng nàn tình tự quê hương. Có thể những hình ảnh rất đơn sơ tầm thường như:
Quê tôi có lúa, có dâu
Có đàn cò trắng, có câu huê tình
Có cây đa, có mái đình
Có bầy thôn nữ xinh xinh dịu dàng
Mùa thu có những hội làng
Có cây đu buổi xuân sang dập dìu...
Gió vi vu tiếng sáo diều
Ru hồn mục tử chiều chiều trên đê...
(trích Quê tôi, 1957)

Và Nguyễn Tấn Long cũng đã cho biết thêm:

Ngoài khía cạnh độc đáo nhất của nhà thơ họ Bàng - loại thơ đồng quê. Đến đây chúng tôi xin nói đến phần khác: thi ca tình yêu. Về loại này, Bàng Bá Lân không có nhiều...Tuy nhiên trong số ít đó,ông cũng tỏ ra có một giọng thơ "mướt" khi tỏ tình yêu, nhưng là thứ tình yêu nhẹ nhàng của người Á Đông, dù yêu tha thiết cũng không bộc lộ sỗ sàng, nó phải là thứ "tình trong như đã mặt ngoài còn e.[4]
Tình trong mưa
Chiều ấy, mưa rào ở xóm Đông
Cho người ủ dột đứng bên song
Xa nhìn đắm đuối tìm trong gió...
Chỉ thấy màn mưa trắng ngập đồng.
Ai biết mưa rơi nói những gì?
Lá buồn gieo lệ khóc lâm ly.
Lòng bâng khuâng quá, xôn xao nhớ
Cả một tình yêu buổi ấu thì...
Buổi một nàng qua dưới mái hiên
Đường mưa in một gót chân tiên
Ta nhìn theo bước đi ren rén
Bỗng cả lòng yêu náo nức liền...
Từ ấy trên đường loang loáng mưa
Tìm hoài đâu thấy gót chân xưa!
Đường mưa bao gót chân mưa bước,
Gợi mãi tình yêu buổi dại khờ!
(1942)

Thông tin thêm

Có ý kiến cho rằng hai câu vẫn được cho là ca dao:

Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi

chính là thơ của ông, và nguyên bản của nó như sau:

Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi.[5]

Chú thích

  1. ^ Theo Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam ghi ông sinh năm 1913.
  2. ^ Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 1988, tr.175-176.
  3. ^ Thi nhân tiền chiến, quyển thượng, NXB Sống Mới, Sài Gòn, năm 1968, tr.716.
  4. ^ sách đã dẫn, tr.729
  5. ^ Hãy trả thơ về cho Bàng Bá Lân! báo Tiền phong trên mạng, truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2008.

Liên kết ngoài