Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bao vây Baghdad (1258)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 35: Dòng 35:
Bất chấp các chiến thắng này, Đế quốc Abbas hy vọng đạt được thỏa thuận với người Mông Cổ và đến năm 1241 thì chấp thuận cống nạp hàng năm cho triều đình của đại hãn.<ref name="Mongol Empire p.2"/> Các sứ thần từ Abbas hiện diện tại lễ đăng cơ của [[Quý Do|Quý Do Hãn]] vào năm 1246<ref>Giovanni, da Pian del Carpine (translated by Erik Hildinger) ''The story of the Mongols whom we call the Tartars (1996)'', p. 108</ref> và của [[Mông Kha|Mông Kha Hãn]] vào năm 1251.<ref>http://depts.washington.edu/silkroad/lectures/wulec3.html</ref> Trong thời gian trị vì ngắn của mình, Quý Do Hãn nhất quyết yêu cầu Khalip [[Al-Musta'sim]] hoàn toàn quy phục trước quyền uy của Mông Cổ và đích thân đến [[Karakorum]]. Do Khalip từ chối và các kháng cự khác của Abbas, người Mông Cổ gia tăng các nỗ lực bành trướng quyền uy của mình.
Bất chấp các chiến thắng này, Đế quốc Abbas hy vọng đạt được thỏa thuận với người Mông Cổ và đến năm 1241 thì chấp thuận cống nạp hàng năm cho triều đình của đại hãn.<ref name="Mongol Empire p.2"/> Các sứ thần từ Abbas hiện diện tại lễ đăng cơ của [[Quý Do|Quý Do Hãn]] vào năm 1246<ref>Giovanni, da Pian del Carpine (translated by Erik Hildinger) ''The story of the Mongols whom we call the Tartars (1996)'', p. 108</ref> và của [[Mông Kha|Mông Kha Hãn]] vào năm 1251.<ref>http://depts.washington.edu/silkroad/lectures/wulec3.html</ref> Trong thời gian trị vì ngắn của mình, Quý Do Hãn nhất quyết yêu cầu Khalip [[Al-Musta'sim]] hoàn toàn quy phục trước quyền uy của Mông Cổ và đích thân đến [[Karakorum]]. Do Khalip từ chối và các kháng cự khác của Abbas, người Mông Cổ gia tăng các nỗ lực bành trướng quyền uy của mình.


==Húc Liệt Ngột chinh phạt==
==Tham khảo==
Năm 1257, Mông Kha quyết tâm thiết lập quyền lực vững chắc đối với Lưỡng Hà, Syria, và Iran. Đại hãn cho em trại là [[Húc Liệt Ngột]] quyền lực đối với một hãn quốc phụ thuộc là [[Hãn quốc Y Nhi|Y Nhi]], chỉ thị phải buộc các quốc gia Hồi giáo phải quy phục, trong đó có Đế quốc Abbas. Mặc dù không tìm cách phế truất Al-Musta'sim, song Mông Kha lệnh cho Húc Liệt Ngột tàn phá Baghdad nếu Khalip từ chối các yêu sách về đích thân quy phục Húc Liệt Ngột và nộp cống dưới hình thức viện trợ quân sự, nhằm củng cố quân đội của Húc Liệt Ngột trong các chiến dịch chống lại các quốc gia [[Ismaili]] tại Iran ngày nay.
{{tham khảo}}

Để chuẩn bị cho xâm chiếm, Húc Liệt Ngột gây dựng một lực lượng viễn chinh lớn, bắt một trong mười nam giới trong độ tuổi đi lĩnh trên toàn Đế quốc Mông Cổ, tập hợp được một đạo quân Mông Cổ có thể là đông đảo nhất từng tồn tại với một ước tính là 150.000.<ref>{{cite web|url=http://www.telusplanet.net/dgarneau/euro54.htm|title=European & Asian History|work=telusplanet.net}}</ref> Các tướng quân của đạo quân gồm [[Arghun Agha]], [[Baiju]], [[Buqa Temür]], [[Quách Khản]], và Kitbuqa, cũng như em trai Húc Liệt Ngột là Sunitai và nhiều người khác.<ref>Rashiddudin, ''Histoire des Mongols de la Perse'', E. Quatrieme ed. and trans. (Paris, 1836), p. 352.</ref> Lực lượng cũng được bổ xung từ quân Cơ Đốc giáo, bao gồm của Quốc vương Armenia, một đạo quân Frank từ [[Thân vương quốc Antioch]],<ref>Demurger, 80-81; Demurger 284</ref> và một lực lượng [[Vương quốc Gruzia|Gruzia]] tìm cách báo thù người Abbas Hồi giáo vì các shah của Khwarazm cướp phá thủ đô [[Tbilisi|Tiflis]] nhiều thập niên trước.<ref>Khanbaghi, 60</ref> Khoảng 1.000 pháo thủ người Hán tháp tùng quân đội Mông Cổ,<ref>{{cite book |url={{Google books |plainurl=yes |id=BZf_L1V7NLUC |page=173 }} |title=A Short History of the Chinese People
|authorlink=Luther Carrington Goodrich|author=L. Carrington Goodrich|accessdate=2011-11-28 |edition=illustrated |series= |volume= |date= |year=2002 |month= |publisher=Courier Dover Publications |location= |language= |isbn=0-486-42488-X |page=173 |pages= |quote=In the campaigns waged in western Asia (1253-1258) by Jenghis' grandson Hulagu, "a thousand engineers from China had to get themselves ready to serve the catapults, and to be able to cast inflammable substances." One of Hulagu's principal generals in his successful attack against the caliphate of Baghdad was Chinese.}}</ref> cùng với đó là các phụ trợ người Ba Tư và Đột Quyết theo lời của sử gia Ba Tư đương đại [[Ata-Malik Juvayni]].

Húc Liệt Ngột dẫn quân đến Iran, tại đây ông thắng lợi trong chiến dịch chống người Lur, [[Bukhara]], và dư đảng của Khwarezm. Sau khi chinh phục họ, Húc Liệt Ngột chuyển hướng chú ý sang Hashshashin dòng Ismaili và Đại sư của họ là Imam 'Ala al-Din Muhammad, những người nỗ lực ám sát Mông Kha và thuộc hạ của Húc Liệt Ngột là [[Khiếp Đích Bất Hoa]] (Kitbuqa). Mặc dù Hashshashin thất bại trong cả hai nỗ lực, song Húc Liệt Ngột vẫn tiến quân đến thành trì của họ tại [[thành Alamut|Alamut]], và chiếm được thành. Người Mông Cổ sau đó hành quyết Đại sư Imam Rukn al-Dun Khurshah, là người kế nhiệm 'Ala al-Din Muhammad trong thời gian 1255-1256.

==Chiếm Baghdad==
Sau khi đánh bại Hashshashin, Hulagu gửi tin cho Al-Musta'sim, yêu cầu chấp thuận do Mông Kha áp đặt. Al-Musta'sim từ chối, phần lớn là do tác động của cố vấn và đại tể tướng Ibn al-Alkami. Các sử gia quy những động cơ khác nhau khiến al-Alkami phản đối quy phục, bao gồm phản bội<ref name=Zaydan>{{cite book|last=Zaydān|first=Jirjī|title=History of Islamic Civilization, Vol. 4|year=1907|publisher=Stephen Austin and Sons, Ltd.|location=Hertford|pages=292|url={{Google books |plainurl=yes |id=DRByAAAAMAAJ |page=292 }} |accessdate=16 September 2012}}</ref> và thiếu năng lực,<ref name=Davis>{{cite book|last=Davis|first=Paul K.|title=Besieged: 100 Great Sieges from Jericho to Sarajevo|year=2001|publisher=Oxford University Press|location=New York|pages=67}}</ref> và có vẻ là ông nói dối với Khalip về mức độ nghiêm trọng của cuộc xâm lăng, quả quyết với Al-Musta'sim rằng nếu thủ đô của đế quốc gặp nguy hiểm trước một đội quân Mông Cổ, thế giới Hồi giáo sẽ lao đến cứu viện.<ref name="Davis"/>

Al-Musta'sim hồi đáp các yêu cầu của Húc Liệt Ngột theo cách thức mà khiến cho tư lệnh người Mông Cổ cảm thấy sự hăm sọa và xúc phạm đủ để ngừng tiếp tục thương lượng,<ref>Nicolle</ref> song ông từ chối tập hợp quân đội để hỗ trợ lực lượng hiện hữu tại Baghdad, cũng không gia cố tường thành. Đến ngày 11 tháng 1, quân Mông Cổ đến khu vực lân cận thành,<ref name="Davis"/> đóng hai bên bờ [[sông Tigris]] nhằm tạo thành một gọng kìm quanh thành phố, và Al-Musta'sim cuối cùng quyết định đối đầu với quân Mông Cổ, phái một đạo quân gồm 20.000 kị binh đi tấn công. Đội kị binh chịu thất bại quyết định trước quân Mông Cổ, các công trình sư của Mông Cổ phá đê dọc sông Tigris và khiến mặt đất bị ngập khu vực ở phía sau quân Abbas, đánh bẫy họ.<ref name="Davis"/>

[[File:Persian painting of Hülegü’s army attacking city with siege engine.jpg|thumb|Bức tranh Ba Tư (thế kỷ 14) mô tả quân của Húc Liệt Ngột bao vây thành phố]]

Ngày 29 tháng 1, quân Mông Cổ bắt đầu bao vây Baghdad, xây dựng một hàng rào chấn song và một hào quanh thành phố. Người Mông Cổ sử dụng các dụng cụ công thành và máy lăng đá, nỗ lực chọc thủng tường thành, và đến ngày 5 tháng 2 thì họ chiếm được một bộ phận quan trọng của thành lũy. Nhận thấy rằng quân của mình ít có cơ hội tái chiếm tường thành, Al-Musta'sim nỗ lực khai thông thương lượng với Húc Liệt Ngột, song bị cự tuyệt. Khoảng 3.000 quý tộc Baghdad cũng nỗ lực thương lượng với Húc Liệt Ngột song họ bị tàn sát.<ref>{{cite book|last=Fattah|first=Hala|title=A Brief History of Iraq|publisher=Checkmark Books|page=101}}</ref> Năm ngày sau đó, tức 10 tháng 2, thành Baghdad đầu hàng, song người Mông Cổ không vào thành cho đến ngày 13, bắt đầu một tuần tàn sát và tàn phá.



[[Thể loại:Xung đột năm 1258]]
[[Thể loại:Xung đột năm 1258]]

Phiên bản lúc 19:31, ngày 23 tháng 5 năm 2015

Bao vây Baghdad (1258)
Một phần của Các cuộc xâm lược của Mông Cổ

Quân của Húc Liệt Ngột tiến hành bao vây thành Baghdad
Thời gian29 tháng 1 – 10 tháng 2, 1258
Địa điểm
Baghdad, Iraq hiện nay
Kết quả Mông Cổ thắng lợi quyết định.
Tham chiến

Đế quốc Mông Cổ

Hãn quốc Y Nhi
Vương quốc Cilicia
Tân vương quốc Antioch
người Ba Tư
Người Hán phục vụ Mông Cổ

Đế quốc Abbas

Chỉ huy và lãnh đạo
Húc Liệt Ngột Hãn
Arghun Aqa
Baiju
Buqa-Temür
Sunitai
Kitbuqa
Koke Ilge[1]
Al-Musta'sim  Hành quyết
Mujaheduddin
Sulaiman Shah  Hành quyết
Qarasunqur
Al-Ashraf Musa
Thành phần tham chiến
40.000+ binh sĩ Mông Cổ, chủ yếu là kị binh[2]
12.000 kị binh Armenia[3]
40.000 bộ binh Armenia[3]
bộ binh Gruzia
1.000 pháo thủ và công trình sư người Hán
các binh sĩ Đột QuyếtBa Tư
Cavalry
Infantry
Lực lượng
120.000[3]–150,000[4] 50.000
Thương vong và tổn thất
Không rõ song được cho là tối thiểu 50.000 binh sĩ,
200.000–800.000 thường dân (nguồn phương Tây)[5]
2.000.000 thường dân (nguồn Ả Rập)[6]

Bao vây Baghdad diễn ra từ ngày 19 tháng 1 đến 10 tháng 2 năm 1258 khi quân Mông Cổ thuộc Hãn quốc Y Nhi và đồng minh tiến hành bao vây, chiếm linh và cướp phá Baghdad, đương thời là thủ đô của Đế quốc Abbasid. Quân Mông Cỏ nằm dưới quyền chỉ huy của Húc Liệt Ngột Hãn, em trai của Đại hãn Mông Kha- có ý địch khuếch trương hơn nữa vào Lưỡng Hà song không trực tiếp lập đổ Đế quốc. Tuy nhiên, Mông Kha chỉ thị cho Húc Liệt Ngột tiến công Baghdad nếu Khalip Al-Musta'sim từ chối các yêu sách của Mông Cổ về việc duy trì quy phục Đại hãn và nộp cống dưới hình thức hỗ trợ quân sự cho lực lượng Mông Cổ tại Iran.

Húc Liệt Ngột bắt đầu chiến dịch tại Iran bằng một số cuộc tấn công các nhóm Nizari, trong đó có Hashshashin. Sau đó, ông hành quân đến Baghdad, yêu sách rằng Al-Musta'sim chấp thuận các điều khoản mà Mông Kha áp đặt cho Abbas. Mặc dù Abbas không chuẩn bị ứng phó với cuộc xâm chiếm, song Khlip tin rằng Baghdad có thể không thất thủ trước quân xâm chiếm và từ chối đầu hàng. Sau đó, Húc Liệt Ngột bao vây thành, kết quả là thành phải đầu hàng sau 12 ngày. Trong tuần sau đó, quân Mông Cổ cướp phá Baghdad, có nhiều hành động tàn bạo và phá hủy các thư viện đại quy mô của Abbas. Quân Mông Cổ hành quyết Al-Musta'sim và tàn sát nhiều cư dân trong thành, khiến dân số Baghdad giảm rất nhiều. Cuộc bao vây được cho là dánh dấu kết thúc Kỷ nguyên hoàng kim Hồi giáo, là thời kỳ mà các khalip khuếch trương quyền cai trị của họ từ bán đảo Iberia cho đến Sindh, và có nhiều thành tựu về văn hóa.[7]

Bối cảnh

Baghdad là thủ đô của Đế quốc Abbas trong nhiều thế kỷ, các quân chủ của đế quốc Hồi giáo thứ ba này là hậu duệ của một người chú ruột mang tên Abbas của Muhammad. Năm 751, dòng Abbas lật đổ dòng Umayya và chuyển trị sở của Khalip (quân chủ) từ Damas đến Baghdad. Vào thời kỳ đỉnh cao, dân số thành phố đạt xấp xỉ một triệu, có một đạo quân 60.000 binh sĩ bảo vệ. Tuy nhiên, đến giữa thế kỷ 13, quyền lực của dòng Abbas suy thoái, các quân phiệt Turk và Mamluk thường nắm giữ nhiều quyền lực hơn các Khalip. Tuy vậy, thành phố vẫn duy trì ý nghĩa tượng trưng, và vẫn là một nơi giàu có và có văn hóa. Các Khalip bắt đầu kết minh với Đế quốc Mông Cổ đang bành trướng tại phía đông, và Khalip an-Nasir li-dini'llah (trị vì 1180–1225) có thể đã nố lực kết minh với Thành Cát Tư Hãn khi Muhammad II của Khwarezm đe dọa tấn công Abbas.[8] Có tin đồn[9] rằng một số tù nhân Thập tự quân bị biến thành cống phẩm cho đại hãn của Mông Cổ.

Theo Mông Cổ bí sử, Thành Cát Tư Hãn và Oa Khoát Đài Hãn ra lệnh cho tướng quân Xước Nhi Mã Hãn (Chormaqan) tấn công Baghdad.[10] Năm 1236, Xước Nhi Mã Hãn lãnh đạo một đạo quân Mông Cổ tới Irbil,[11] đương thời nắm dưới quyền cai trị của Abbas. Các cuộc tấn công tiếp theo nhằm vào Irbil và các khu vực khác của đế quốc diễn ra gần như hàng năm.[12] Some raids were alleged to have reached Baghdad itself,[13] song các cuộc tấn công của người Mông Cổ không phải là luôn giành thắng lợi, khi quân Abbas đánh bại quân ngoại xâm vào năm 1238[14] và 1245.[15]

Bất chấp các chiến thắng này, Đế quốc Abbas hy vọng đạt được thỏa thuận với người Mông Cổ và đến năm 1241 thì chấp thuận cống nạp hàng năm cho triều đình của đại hãn.[13] Các sứ thần từ Abbas hiện diện tại lễ đăng cơ của Quý Do Hãn vào năm 1246[16] và của Mông Kha Hãn vào năm 1251.[17] Trong thời gian trị vì ngắn của mình, Quý Do Hãn nhất quyết yêu cầu Khalip Al-Musta'sim hoàn toàn quy phục trước quyền uy của Mông Cổ và đích thân đến Karakorum. Do Khalip từ chối và các kháng cự khác của Abbas, người Mông Cổ gia tăng các nỗ lực bành trướng quyền uy của mình.

Húc Liệt Ngột chinh phạt

Năm 1257, Mông Kha quyết tâm thiết lập quyền lực vững chắc đối với Lưỡng Hà, Syria, và Iran. Đại hãn cho em trại là Húc Liệt Ngột quyền lực đối với một hãn quốc phụ thuộc là Y Nhi, chỉ thị phải buộc các quốc gia Hồi giáo phải quy phục, trong đó có Đế quốc Abbas. Mặc dù không tìm cách phế truất Al-Musta'sim, song Mông Kha lệnh cho Húc Liệt Ngột tàn phá Baghdad nếu Khalip từ chối các yêu sách về đích thân quy phục Húc Liệt Ngột và nộp cống dưới hình thức viện trợ quân sự, nhằm củng cố quân đội của Húc Liệt Ngột trong các chiến dịch chống lại các quốc gia Ismaili tại Iran ngày nay.

Để chuẩn bị cho xâm chiếm, Húc Liệt Ngột gây dựng một lực lượng viễn chinh lớn, bắt một trong mười nam giới trong độ tuổi đi lĩnh trên toàn Đế quốc Mông Cổ, tập hợp được một đạo quân Mông Cổ có thể là đông đảo nhất từng tồn tại với một ước tính là 150.000.[18] Các tướng quân của đạo quân gồm Arghun Agha, Baiju, Buqa Temür, Quách Khản, và Kitbuqa, cũng như em trai Húc Liệt Ngột là Sunitai và nhiều người khác.[19] Lực lượng cũng được bổ xung từ quân Cơ Đốc giáo, bao gồm của Quốc vương Armenia, một đạo quân Frank từ Thân vương quốc Antioch,[20] và một lực lượng Gruzia tìm cách báo thù người Abbas Hồi giáo vì các shah của Khwarazm cướp phá thủ đô Tiflis nhiều thập niên trước.[21] Khoảng 1.000 pháo thủ người Hán tháp tùng quân đội Mông Cổ,[22] cùng với đó là các phụ trợ người Ba Tư và Đột Quyết theo lời của sử gia Ba Tư đương đại Ata-Malik Juvayni.

Húc Liệt Ngột dẫn quân đến Iran, tại đây ông thắng lợi trong chiến dịch chống người Lur, Bukhara, và dư đảng của Khwarezm. Sau khi chinh phục họ, Húc Liệt Ngột chuyển hướng chú ý sang Hashshashin dòng Ismaili và Đại sư của họ là Imam 'Ala al-Din Muhammad, những người nỗ lực ám sát Mông Kha và thuộc hạ của Húc Liệt Ngột là Khiếp Đích Bất Hoa (Kitbuqa). Mặc dù Hashshashin thất bại trong cả hai nỗ lực, song Húc Liệt Ngột vẫn tiến quân đến thành trì của họ tại Alamut, và chiếm được thành. Người Mông Cổ sau đó hành quyết Đại sư Imam Rukn al-Dun Khurshah, là người kế nhiệm 'Ala al-Din Muhammad trong thời gian 1255-1256.

Chiếm Baghdad

Sau khi đánh bại Hashshashin, Hulagu gửi tin cho Al-Musta'sim, yêu cầu chấp thuận do Mông Kha áp đặt. Al-Musta'sim từ chối, phần lớn là do tác động của cố vấn và đại tể tướng Ibn al-Alkami. Các sử gia quy những động cơ khác nhau khiến al-Alkami phản đối quy phục, bao gồm phản bội[23] và thiếu năng lực,[24] và có vẻ là ông nói dối với Khalip về mức độ nghiêm trọng của cuộc xâm lăng, quả quyết với Al-Musta'sim rằng nếu thủ đô của đế quốc gặp nguy hiểm trước một đội quân Mông Cổ, thế giới Hồi giáo sẽ lao đến cứu viện.[24]

Al-Musta'sim hồi đáp các yêu cầu của Húc Liệt Ngột theo cách thức mà khiến cho tư lệnh người Mông Cổ cảm thấy sự hăm sọa và xúc phạm đủ để ngừng tiếp tục thương lượng,[25] song ông từ chối tập hợp quân đội để hỗ trợ lực lượng hiện hữu tại Baghdad, cũng không gia cố tường thành. Đến ngày 11 tháng 1, quân Mông Cổ đến khu vực lân cận thành,[24] đóng hai bên bờ sông Tigris nhằm tạo thành một gọng kìm quanh thành phố, và Al-Musta'sim cuối cùng quyết định đối đầu với quân Mông Cổ, phái một đạo quân gồm 20.000 kị binh đi tấn công. Đội kị binh chịu thất bại quyết định trước quân Mông Cổ, các công trình sư của Mông Cổ phá đê dọc sông Tigris và khiến mặt đất bị ngập khu vực ở phía sau quân Abbas, đánh bẫy họ.[24]

Bức tranh Ba Tư (thế kỷ 14) mô tả quân của Húc Liệt Ngột bao vây thành phố

Ngày 29 tháng 1, quân Mông Cổ bắt đầu bao vây Baghdad, xây dựng một hàng rào chấn song và một hào quanh thành phố. Người Mông Cổ sử dụng các dụng cụ công thành và máy lăng đá, nỗ lực chọc thủng tường thành, và đến ngày 5 tháng 2 thì họ chiếm được một bộ phận quan trọng của thành lũy. Nhận thấy rằng quân của mình ít có cơ hội tái chiếm tường thành, Al-Musta'sim nỗ lực khai thông thương lượng với Húc Liệt Ngột, song bị cự tuyệt. Khoảng 3.000 quý tộc Baghdad cũng nỗ lực thương lượng với Húc Liệt Ngột song họ bị tàn sát.[26] Năm ngày sau đó, tức 10 tháng 2, thành Baghdad đầu hàng, song người Mông Cổ không vào thành cho đến ngày 13, bắt đầu một tuần tàn sát và tàn phá.

  1. ^ John Masson Smith, Jr. Mongol Manpower and Persian Population, pp.276
  2. ^ John Masson Smith, Jr. - Mongol Manpower and Persian Population, pp.271-299
  3. ^ a b c L. Venegoni (2003). Hülägü's Campaign in the West - (1256-1260), Transoxiana Webfestschrift Series I, Webfestschrift Marshak 2003.
  4. ^ National Geographic, v. 191 (1997)
  5. ^ Andre Wink, Al-Hind: The Making of the Indo-Islamic World, Vol.2, (Brill, 2002), 13.  – via Questia (cần đăng ký mua)
  6. ^ The different aspects of Islamic culture: Science and technology in Islam, Vol.4, Ed. A. Y. Al-Hassan, (Dergham sarl, 2001), 655.
  7. ^ Matthew E. Falagas, Effie A. Zarkadoulia, George Samonis (2006). "Arab science in the golden age (750–1258 C.E.) and today", The FASEB Journal 20, pp. 1581–1586.
  8. ^ Jack Weatherford Genghis Khan and the making of the modern world, p.135
  9. ^ Jack Weatherford Genghis Khan and the making of the modern world, p.136
  10. ^ Sh.Gaadamba Mongoliin nuuts tovchoo (1990), p.233
  11. ^ Timothy May Chormaqan Noyan, p.62
  12. ^ Al-Sa'idi,., op. cit., pp. 83, 84, from Ibn al-Fuwati
  13. ^ a b C. P. Atwood Encyclopedia of Mongolia and the Mongol Empire, p.2
  14. ^ Spuler, op. cit., from Ibn al-'Athir, vol. 12, p. 272.
  15. ^ “Mongol Plans for Expansion and Sack of Baghdad”. alhassanain.com.
  16. ^ Giovanni, da Pian del Carpine (translated by Erik Hildinger) The story of the Mongols whom we call the Tartars (1996), p. 108
  17. ^ http://depts.washington.edu/silkroad/lectures/wulec3.html
  18. ^ “European & Asian History”. telusplanet.net.
  19. ^ Rashiddudin, Histoire des Mongols de la Perse, E. Quatrieme ed. and trans. (Paris, 1836), p. 352.
  20. ^ Demurger, 80-81; Demurger 284
  21. ^ Khanbaghi, 60
  22. ^ L. Carrington Goodrich (2002). A Short History of the Chinese People . Courier Dover Publications. tr. 173. ISBN 0-486-42488-X. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2011. In the campaigns waged in western Asia (1253-1258) by Jenghis' grandson Hulagu, "a thousand engineers from China had to get themselves ready to serve the catapults, and to be able to cast inflammable substances." One of Hulagu's principal generals in his successful attack against the caliphate of Baghdad was Chinese. Chú thích có tham số trống không rõ: |month= (trợ giúp)
  23. ^ Zaydān, Jirjī (1907). History of Islamic Civilization, Vol. 4. Hertford: Stephen Austin and Sons, Ltd. tr. 292. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2012.
  24. ^ a b c d Davis, Paul K. (2001). Besieged: 100 Great Sieges from Jericho to Sarajevo. New York: Oxford University Press. tr. 67.
  25. ^ Nicolle
  26. ^ Fattah, Hala. A Brief History of Iraq. Checkmark Books. tr. 101.