Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận Salamis”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TRMC (thảo luận | đóng góp)
TRMC (thảo luận | đóng góp)
Dòng 44: Dòng 44:
[[File:Map Greco-Persian Wars-en.svg|thumb|left|Bản đồ mô tả thế giới Hy Lạp cổ đại vào thời điểm chiến tranh nổ ra]]
[[File:Map Greco-Persian Wars-en.svg|thumb|left|Bản đồ mô tả thế giới Hy Lạp cổ đại vào thời điểm chiến tranh nổ ra]]


Darius bắt đầu xây dựng lại một đội quân khổng lồ mới, một đội quân mà ông ta cho là có thể khuất phục nổi Hy Lạp. Tuy nhiên vài năm 486 TCN, xứ Ai Cập nổi dậy chống lại đế chế Ba Tư, điều này làm cho ông ta phải trì hoãn cuộc viễn chinh Hy Lạp.<ref name = h203>Holland, tr. 203</ref> Sau đó, Darius chết khi đang chuẩn bị tiến vào Ai Cập và quyền cai trị đế chế Ba Tư lúc đó rơi vào tay con trai ông là [[Xerxes I]].<ref>Holland, các trang 206–206</ref> Xerxes nhanh chóng nghiền nát cuộc nổi dậy của người Ai Cập và tiếp tục khởi động lại sự chuẩn bị cho cuộc xâm lược Hy Lạp.<ref name = h208>Holland, các trang 208–211</ref> Kể từ đó cuộc viễn chinh Hy Lạp với đầy đủ quy mô bắt đầu, nó đòi hỏi phải trù tính lâu dài và cần phải cưỡng bức tòng quân.<ref name = h208/> Xerxes quyết định rằng Hellespont ([[eo biển Dardanelles]] ngày nay) sẽ là cây cầu cho quân đội của ông ta tiến vào châu Âu và cho đào một chiếc kênh xuyên qua eo đất núi Athos (Ở gần múi đất này, một hạm đội Ba Tư đã từng bị tiêu diệt trong một trận đánh năm 492 TCN) đây là hai kỳ công hiếm thấy của một tham vọng phi thường vượt quá khả năng của quốc gia ở thời đó. Vào khoảng đầu năm 480 TCN sự chuẩn bị đã hoàn thành, đội quân mà hoàng đế Xerxes đã gây dựng từ at Sardis bắt đầu hành quân tiến về phía châu Âu, vượt qua Hellespont bằng hai cây cầu phao.<ref>Herodotus [http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Perseus%3Atext%3A1999.01.0126;query=chapter%3D%231100;layout=;loc=7.35.1 VII, 35]</ref>
Darius bắt đầu xây dựng lại một đội quân khổng lồ mới, một đội quân mà ông ta cho là có thể khuất phục nổi Hy Lạp. Tuy nhiên vài năm 486 TCN, xứ Ai Cập nổi dậy chống lại đế chế Ba Tư, điều này làm cho ông ta phải trì hoãn cuộc viễn chinh Hy Lạp.<ref name = h203>Holland, tr. 203</ref> Sau đó, Darius chết khi đang chuẩn bị tiến vào Ai Cập và quyền cai trị đế chế Ba Tư lúc đó rơi vào tay con trai ông là [[Xerxes I]].<ref>Holland, các trang 206–206</ref> Xerxes nhanh chóng nghiền nát cuộc nổi dậy của người Ai Cập và tiếp tục khởi động lại sự chuẩn bị cho cuộc xâm lược Hy Lạp.<ref name = h208>Holland, các trang 208–211</ref> Kể từ đó cuộc viễn chinh Hy Lạp với đầy đủ quy mô bắt đầu, nó đòi hỏi phải trù tính lâu dài và cần phải cưỡng bức tòng quân.<ref name = h208/> Xerxes quyết định rằng Hellespont ([[eo biển Dardanelles]] ngày nay) sẽ là cây cầu cho quân đội của ông ta tiến vào châu Âu và cho đào một chiếc kênh xuyên qua eo đất núi Athos (Ở gần múi đất này, một hạm đội Ba Tư đã từng bị tiêu diệt trong một trận đánh năm 492 TCN) đây là hai kỳ công hiếm thấy của một tham vọng phi thường vượt quá khả năng của quốc gia ở thời đó. Vào khoảng đầu năm 480 TCN sự chuẩn bị đã hoàn thành, đội quân mà hoàng đế Xerxes đã gây dựng từ Sardes bắt đầu hành quân tiến về phía châu Âu, vượt qua Hellespont bằng hai cây cầu phao.<ref>Herodotus [http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Perseus%3Atext%3A1999.01.0126;query=chapter%3D%231100;layout=;loc=7.35.1 VII, 35]</ref>

Người Athena cũng đã bắt đầu ráo riết chuẩn bị chiến tranh với người Ba Tư kể từ giữa những năm 482-480 TCN. Dưới sự lãnh đạo của nhà chính trị gia [[Themistocles]], Athena đã đóng một hạm đội tàu Trireme lớn, hạm đội này rất cần thiết cho Athena trong cuộc chiến với Ba Tư.<ref name = h217>Holland, các trang 217–223</ref> Tuy nhiên Athena cũng không đủ lực để chiến đấu với Ba Tư cả trên bộ lẫn trên biển, điều này đòi hỏi phải có sự tham gia của một Đồng minh Hy Lạp khác. Vào năm 481 TCN, Xerxes gửi sứ giả tới Hy Lạp để đòi cống nạp "đất và nước", nhưng đã bị hai xứ Athena và Sparta lờ đi.<ref>Herodotus [http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Perseus%3Atext%3A1999.01.0126&layout=&loc=7.32.1 VII, 32]</ref> Những phe ủng hộ hai xứ này bắt đầu kết hợp lại dưới sự lãnh đạo của Athena và Sparta. Một hội nghị của các thành bang đã được tổ chức tại Corinth vào cuối mùa thu năm 481 TCN<ref name=VII145>Herodotus [http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Perseus%3Atext%3A1999.01.0126&layout=&loc=7.145.1 VII, 145]</ref> và một Liên minh các thang bang Hy Lạp đã được thành lập. Liên minh này có quyền gửi phái viên đòi hỏi sự trợ giúp và đòi hỏi gửi binh lính của các thành viên của nó tới chiến trường. Đây là một điều rất có ý nghĩa với một thế giới Hy Lạp rời rạc, thiếu sự gắn kết, đặc biệt là thậm chí một số xứ đang còn ở tình trạng chiến tranh với nhau.<ref name = h226>Holland, tr. 226</ref>


== Diễn biến ==
== Diễn biến ==

Phiên bản lúc 13:19, ngày 7 tháng 7 năm 2015

Trận Salamis
Một phần của Chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư

Hình ảnh vệ tinh của Salamis, với hình eo biển ở bên phải
Thời gianTháng 9 năm 480 TCN
Địa điểm
Eo biển Salamis
37°57′5″B 23°34′0″Đ / 37,95139°B 23,56667°Đ / 37.95139; 23.56667
Kết quả Chiến thắng của người Hy Lạp
Thay đổi
lãnh thổ
Persia fails to conquer the Peloponnese.
Tham chiến
Các thành bang Hy Lạp Đế quốc Achaemenes
Chỉ huy và lãnh đạo
Eurybiades,
Themistocles
Xerxes I của Ba Tư,
Artemisia I của Caria,
Ariabignes  
Lực lượng
371–378 chiến hạm a ~900-1207 chiến hạmb
300–600 chiến hạm c
Thương vong và tổn thất
40 chiến hạm 200–300 chiến hạm?
a Herodotus gives 378 ships of the alliance, but his numbers add up to 371.[1]
b As suggested by several ancient sources;
c Modern estimates
Trận Salamis trên bản đồ Hy Lạp
Trận Salamis
Location of the naval battle of Salamis

Trận Salamis (tiếng Hy Lạp cổ: Ναυμαχία τῆς Σαλαμῖνος), là một trận đánh hải quân quyết định giữa các thành bang Hy Lạpđế quốc Ba Tư vào năm 480 trước Công nguyên ở một eo biển giữa Piraeusđảo Salamis, một hòn đảo ở vịnh Saron gần Athena. Chiến thắng của người Hy Lạp đã đánh dấu một bước ngoặt của chiến dịch, dẫn đến thất bại cuối chung cuộc của quân Ba Tư.

Năm 490 TCN hoàng đế Ba Tư là Darius Đại đế mang quân sang đánh Hy Lạp. Trong trận Marathon, quân Ba Tư bị thua rút chạy về nước, sửa soạn phục thù trong mười năm. Đến năm 480 TCN, con trai của Darius là Xerxes Đại đế đưa đại quân đến đánh Hy Lạp. Nước Hy Lạp lúc đó do Themistocles đứng đầu. Mùa xuân năm 480 TCN, quân Ba Tư tiến vào Địa Trung Hải và tấn công Hy Lạp. Mục đích ban đầu là đánh chiếm thành Athena. Người đứng đầu nhà nước Hy Lạp lệnh cho tất cả các thành phố cảng vùng biển phải dựng các chướng ngại vật dọc theo bờ biển để ngăn quân đối phương đổ bộ và cho tập trung tất cả quân đội và chiến thuyền tại eo biển Salamis.

Đoàn chiến thuyền của Ba Tư gồm 1200 chiếc, chạy dọc theo bờ biển Thessali tiến xuống quần đảo ở phía Bắc mỏm Eubée, nơi có mặt những chiến thuyền tiên phong của Hy Lạp... Xerxes cho dàn thuyền chiến thành 8 hàng trong đêm tối nhưng khi bố trí xong thì gần đến sáng, bỗng có cơn giông ập tới, phá tan thuyền chiến Ba Tư, đánh giạt hàng trăm chiếc vào bờ và bị chìm một số. Khi tập hợp lại chỉ còn không đầy 800 chiếc. Xerxes liền cắt cử Nữ hoàng xứ Halicarnass Artemisia I - đồng thời cũng là nữ tướng chỉ huy 5 chiến thuyền bất ngờ tấn công vào phía Hy Lạp. Hạm đội Hy Lạp bị thua to khi trời gần sáng. Artemisia bắt được một viên tướng Hy Lạp, sai đem buộc vào mũi thuyền, cắt cổ cho máu chảy xuống biển để tạ ơn Thần Biển! Tiếp đó thừa thắng xông lên, Ba Tư kéo đại quân xuống phía đông Eubée. Trong khi đó quân Hy Lạp nung nấu ý chí phục thù, rồi nhân một đêm tối trời, họ phản công lại quân Ba Tư. Quân Ba Tư chủ quan khinh địch không kịp trở tay, bị đắm ba chục chiếc thuyền phải tháo chạy ra biển và liền bị bão giông nổi lên làm đắm nhiều chiếc khác. Sau ba ngày, trời yên, bể lặng, quân Ba Tư kéo trở lại mỏm Eubée. Nhưng họ lại bị thua và phải rút lui về cảng Sêpia. Trong lúc Hy Lạp nhận được thêm viện binh liền truy kích quân Ba Tư. Trận cuối cùng nổ ra ở Salamine, quân Hy Lạp đã thắng, thuyền chiến Ba Tư đắm gần hết, một số bị bắt làm tù binh. Hoàng đế Xerxes hạ lệnh giết hết những người chỉ huy và thủy thủ bỏ chạy. Bên Hy Lạp cũng giết hết các tù binh, trong số đó có Đô đốc là Hoàng tử Ariabigne (Ariabinhơ) là em trai của chính Xerxes.

Trận thắng của Hy Lạp đã làm tan vỡ mộng tưởng chinh phục Châu Âu của Ba Tư. Đây là trận thủy chiến nổi tiếng trong lịch sử cổ đại và đã đưa Themistocles lên hàng danh tướng thế giới thời cổ đại.

Bối cảnh

Trong các năm 499-494 TCN, các thành bang Hy Lạp cổ đại như Athena và Eretria ủng hộ cuộc khởi nghĩa không thành công chống lại Darius I của Ba Tư của người Ionia. Đế quốc Ba Tư lúc đó mới được thành lập, có quân lực rất mạnh, nên chuyện dập tắt cuộc khởi nghĩa này không lấy gì làm khó.[2][3] Hơn nữa Darius I của Ba Tư lại tiến lên ngai vàng bằng bạo lực, nên ông ta càng thiên về dùng sức mạnh để dập tắt những kẻ chống đối lại triều đại của mình.[2] Khởi nghĩa của người Ionia đã đe dọa tính toàn vẹn để chế rộng lớn của ông ta, và Darius thề sẽ trừng phạt những kẻ tham gia (Đặc biệt là những kẻ ở bên ngoài can thiệp vào nội bộ Đế chế).[4][5] Ông cũng thấy luôn đó là một cơ hội để mở rộng đế chế của ông ta tới cái thế giới cứng đầu của các thành bang Hy Lạp cổ.[5] Trước đó, vào năm 492 TCN, tướng Mardonius từng đem quân viễn chinh, đã mở một con đường tiến tới Hy Lạp, tuy nhiên cuộc chinh phạt này chỉ dừng ở việc tái chiếm đóng xứ Thrace và ép xứ Macedonia phải chở thành chư hầu của Ba Tư.[6]

Vào năm 491 TCN, Darius gửi sứ giả đến tất cả các thành bang Hy Lạp, đòi hỏi mọi nơi phải lấy "đất và nước" làm lễ vật cống nạp cho ông ta.[7] Chứng kiến sực mạnh của ông ta năm trước, phần lớn các thành bang Hy Lạp phải làm theo. Tuy nhiên, tại Athena, các sứ giả của Ba Tư đã bị xử tử, còn tại Sparta họ đã bị đá xuống giếng.[7] Điều đó có nghĩa là xứ Sparta đã sẵn sàng cho một cuộc chiến với Ba Tư.[7]

Vào năm 490 TCN, Darius đã gửi một đội quân viễn chinh thăm dò vào Hy Lạp, đội quân này nằm dưới sự chỉ huy của DatisArtaphernes đã tấn công xứ Naxos trước khi họ nhận được các cống nạp thể hiện sự phục tùng từ các đô thành Hy Lạp khác ở xứ Cyclades. Đội quân này sau đó tiến về phía Eretria bao vây và phá hủy thành bang này.[8] Cuối cùng nó tiến về phía Athena, đổ bộ xuống vịnh Marathon, tại đó nó trạm trán với một đội quân lớn của Athena. Ở trận đánh kế tiếp, trận Marathon, Người Athena đã có một chiến thắng quyết định làm cho người Ba Tư phải rút lui về nơi xuất phát ở Tiểu Á.[9]

Bản đồ mô tả thế giới Hy Lạp cổ đại vào thời điểm chiến tranh nổ ra

Darius bắt đầu xây dựng lại một đội quân khổng lồ mới, một đội quân mà ông ta cho là có thể khuất phục nổi Hy Lạp. Tuy nhiên vài năm 486 TCN, xứ Ai Cập nổi dậy chống lại đế chế Ba Tư, điều này làm cho ông ta phải trì hoãn cuộc viễn chinh Hy Lạp.[3] Sau đó, Darius chết khi đang chuẩn bị tiến vào Ai Cập và quyền cai trị đế chế Ba Tư lúc đó rơi vào tay con trai ông là Xerxes I.[10] Xerxes nhanh chóng nghiền nát cuộc nổi dậy của người Ai Cập và tiếp tục khởi động lại sự chuẩn bị cho cuộc xâm lược Hy Lạp.[11] Kể từ đó cuộc viễn chinh Hy Lạp với đầy đủ quy mô bắt đầu, nó đòi hỏi phải trù tính lâu dài và cần phải cưỡng bức tòng quân.[11] Xerxes quyết định rằng Hellespont (eo biển Dardanelles ngày nay) sẽ là cây cầu cho quân đội của ông ta tiến vào châu Âu và cho đào một chiếc kênh xuyên qua eo đất núi Athos (Ở gần múi đất này, một hạm đội Ba Tư đã từng bị tiêu diệt trong một trận đánh năm 492 TCN) đây là hai kỳ công hiếm thấy của một tham vọng phi thường vượt quá khả năng của quốc gia ở thời đó. Vào khoảng đầu năm 480 TCN sự chuẩn bị đã hoàn thành, đội quân mà hoàng đế Xerxes đã gây dựng từ Sardes bắt đầu hành quân tiến về phía châu Âu, vượt qua Hellespont bằng hai cây cầu phao.[12]

Người Athena cũng đã bắt đầu ráo riết chuẩn bị chiến tranh với người Ba Tư kể từ giữa những năm 482-480 TCN. Dưới sự lãnh đạo của nhà chính trị gia Themistocles, Athena đã đóng một hạm đội tàu Trireme lớn, hạm đội này rất cần thiết cho Athena trong cuộc chiến với Ba Tư.[13] Tuy nhiên Athena cũng không đủ lực để chiến đấu với Ba Tư cả trên bộ lẫn trên biển, điều này đòi hỏi phải có sự tham gia của một Đồng minh Hy Lạp khác. Vào năm 481 TCN, Xerxes gửi sứ giả tới Hy Lạp để đòi cống nạp "đất và nước", nhưng đã bị hai xứ Athena và Sparta lờ đi.[14] Những phe ủng hộ hai xứ này bắt đầu kết hợp lại dưới sự lãnh đạo của Athena và Sparta. Một hội nghị của các thành bang đã được tổ chức tại Corinth vào cuối mùa thu năm 481 TCN[15] và một Liên minh các thang bang Hy Lạp đã được thành lập. Liên minh này có quyền gửi phái viên đòi hỏi sự trợ giúp và đòi hỏi gửi binh lính của các thành viên của nó tới chiến trường. Đây là một điều rất có ý nghĩa với một thế giới Hy Lạp rời rạc, thiếu sự gắn kết, đặc biệt là thậm chí một số xứ đang còn ở tình trạng chiến tranh với nhau.[16]

Diễn biến

Dàn trận

Trong hạm đội Đồng Minh, các tầu của người Athen được bố trí ở bên trái và bên phải có lẽ là của quân Sparta (mặc dù sử gia Diodorus cho rằng, vị trí đó là của người Megarea và Aeginetia), các đội tàu khác đóng ở trung tâm.[17][18] Hạm đội quân Đồng Minh có lẽ hình thành thành hai bán đội, vì eo biển được cho là quá hẹp cho một hàng tàu duy nhất.[19] Sử gia Herodotus thì cho rằng hạm đội Đồng Minh tạo thành một đường dài Bắc-Nam, có lẽ với sườn phía bắc ở ngoài khơi bờ biển ngày nay là đảo Thánh Georgis (Ayios Georgis), và sườn phía nam ở ngoài khơi bờ biển Mũi Vavari (một phần của Salamis). Diodorus cho rằng hạm đội Đồng minh thì liên kết theo hướng Đông-Tây, bao gồm các eo biển giữa Salamis và núi Aigaleos, tuy nhiên, dường như là Đồng minh đã có thể bỏ trống một trong những cánh của họ về phía lãnh thổ chiếm đóng bởi người Ba Tư.[20]

Có vẻ khá chắc chắn rằng hạm đội Ba Tư đã được tung ra để chặn lối ra từ eo biển buổi tối hôm trước khi trận đánh xảy ra. Herodotus rõ ràng đã tin rằng hạm đội Ba Tư thực sự tiến vào eo biển vào lúc sẩm tối, người Ba Tư lập kế hoạch để đón bắt Đồng Minh khi họ chạy trốn.[21] Tuy nhiên, các nhà sử học hiện đại lại có rất nhiều tranh luận điểm này, một số chỉ ra những khó khăn của vận động của hạm đội trong một không gian bởi hạn chế bởi bóng đêm, và những người khác lại chấp nhận giả thiết của Herodotus.[22][23] Như vậy có hai khả năng rằng trong đêm trước đó người Ba Tư đơn giản chỉ chặn lối ra vào eo biển, và sau đó tiến vào eo biển trong ban ngày, hoặc là họ tiến vào eo biển và ở lại chính vị trí trong đêm cho đến khi trận đánh xảy ra.[22][23] Bất kể cố gắng nào của họ, thì cũng đều có khả năng người Ba Tư xoay hạm đội của họ về phía mũi Vavari, để từ hứơng ban đầu là đông – tây (chặn để lối ra), họ quay chỉnh một vòng về hướng bắc-nam (xem sơ đồ).[24] Hạm đội Ba Tư có vẻ như đã được chia thành ba hải đội tàu chiến (theo Aeschylus),[25] với hải đội Phoenicia ở bên phải cạnh sườn núi Aigaleos, đội hải Ionia trên sườn trái và hải đội còn lại ở hướng trung tâm.[17]

Diodorus thì cho rằng hải đội của người Ai Cập đã được gửi đi vòng quanh Salamis, để chặn các lối ra phía Bắc từ eo biển.[26] Nếu Xerxes muốn bẫy Đồng Minh một cách chọn vẹn, thì vận động này là hoàn toàn có ý nghĩa (đặc biệt là trong trường hợp ông ta hy vọng Đồng Minh sẽ không chống trả).[25] Tuy nhiên, Herodotus không đề cập đến điều này (và có thể ám chỉ sự hiện diện của Ai Cập trong cuộc chiến chính), dẫn đến một số nhà sử học hiện đại đã bỏ qua điều nay,[24] mặc dù vậy những người khác chấp nhận nó như một khả năng có thể xảy ra.[25] Xerxes cũng cử khoảng 400 binh sĩ lên đóng tại đảo như là Psyttaleia, ở giữa lối ra từ eo biển, để giết hoặc bắt giữ bất kỳ người Hy Lạp bỏ chạy (những người mà tàu của họ đắm hoặc mắc cạn).[27]

Khai màn

Bất kể ở thời gian nào khi họ tiến vào eo biển, người Ba Tư đã không di chuyển để tấn công ngay vào đội hình quân Đồng Minh, mà họ cho đến khi có ánh sáng ban ngày. Kể từ khi họ không còn dự định lẩn tránh, quân Đồng Minh đã có một đêm nghỉ ngơi để chuẩn bị cho trận đánh, và sau một bài phát biểu của Themistocles, các lính thủy đánh bộ lên tàu đã sẵn sàng để căng buồm.[28] Theo Herodotus lúc đó bình minh đang lên, tàu Đồng Minh "đã bơi ra biển ngay lập tức họ bị quân rợ tấn công".[28][29] Nếu người Ba Tư chỉ tiến vào eo biển lúc bình minh, thì khi đó Đồng Minh đã có thời gian để sửa soạn vị trí của họ một cách có trật tự hơn.[22]

ὦ παῖδες Ἑλλήνων ἴτε
ἐλευθεροῦτε πατρίδ᾽, ἐλευθεροῦτε δὲ
παῖδας, γυναῖκας, θεῶν τέ πατρῴων ἕδη,
θήκας τε προγόνων: νῦν ὑπὲρ πάντων ἀγών.

Hỡi những người con Hy Lạp, tiến lên,
Giải phóng đất nước, giải phóng
Con cái, vợ, chỗ ở của những vị thần,
Và những ngôi mộ của những người thân quá cố của mình: bây giờ là cuộc đấu tranh cho tất cả mọi thứ.

[30]

Herodotus kể lại rằng, theo những người Athena, thì dường như là khi trận đánh sắp bắt đầu thì những người Corinth kéo buồm của họ và bắt đầu chèo thuyền ra khỏi trận đánh, họ đi phía các eo biển phía Bắc.[31] Tuy nhiên, ông cũng nói rằng người Hy Lạp khác không đồng ý là có chuyện này xảy ra.[31] Nếu điều này đã xảy ra trong thực tế, người ta có thể giải thích là những tàu này được gửi đến thăm dò theo lối ra phía Bắc từ eo biển, để thăm dò xem liệu có sự xuất hiện của các đội Ai Cập bao quanh hay không? (thực sự là điều này rất có khả năng xảy ra).[22] Một khả năng khác (không một chiều như giả thiết trước đây) là sự ra đi của những người Corinth đã kích thích những hành động tấn công của người Ba Tư vì dường nó cho họ thấy là hạm đội Đồng minh đang bị tan rã. Ở chừng mực nào, nếu thực sự người Corinth đã rẽ trái thì họ cũng sớm quay trở lại tham gia trận chiến.[31]

Tiếp cận hạm đội Đồng minh ở eo biển chật chội, Hạm đội Ba Tư xuất hiện đã trở thành vô tổ chức và chật chội trong vùng biển hẹp.[18][22] Hơn nữa rõ ràng rằng sự tan rã của hạm đội của Hy Lạp đã chấm dứt, họ đã dược sắp xếp lại để sẵn sàng để tấn công kẻ địch.[19][22] Tuy nhiên thay vì tấn công ngay lập tức, các tầu của Đồng Minh lúc đầu lại quay ngược tàu của họ đi, làm như họ đang sợ hãi.[29] Theo Plutarchus, hành động này là để có được vị trí tốt hơn, và cũng để kéo dài thời gian cho đến khi có gió sớm.[32] Herodotus kể lại rằng theo truyền thuyết, dường như lúc hạm đội đang quay trở lại, họ đã thấy một người phụ nữ xuất hiện và nói với họ "Những thằng điên kia, có biết là bao xa để chúng mày quay trở lại tàu của mình không?".[33] Tuy nhiên, ông thêm vào một cách hợp lý là trong khi các tầu của Đồng minh quay trở lạ, có một chiếc tàu duy nhất lao như tên bắn về phía trước để đâm vào tàu lớn gần nhất của người Ba Tư. Người Athena thì tuyên bố rằng đây là con tàu của Ameinias Pallene của Athena, người Aegineta thì tuyên bố rằng đó là một trong những tàu của họ.[29] Rồi toàn bộ Hy Lạp lao vào đội hình đang rối loạn của quân Ba Tư.[34]

Trận chính

Cái chết của Đô đốc Ba Tư Ariabignes (một người em của Xerxes); tranh minh họa từ cuốn Plutarch's Lives for Boys and Girls khoảng năm 1910

Những chi tiết về phần còn lại của trận đánh này nói chung là được chắp ghép sơ sài và không có người nào đã từng tham gia trận đánh lại có một cái nhìn tổng thể về cuộc chiến cả.[22] Tàu Trireme thường được trang bị một mũi nhọn lớn ở phía trước, có thể dùng để đâm chìm tàu địch, hoặc ít nhất là vô hiệu hóa tàu địch bằng cách cắt phá hỏng hàng chèo ở một bên.[35] Nếu đâm không được, lính thủy sẽ nhảy lên tàu đối phương và một trận đánh tay đôi giữa các tầu chiến của đôi bên sẽ nổ ra. Cả hai bên đều có lính thủy trên tàu dành cho tình huống này; người Hy Lạp với Hoplite được trang bị đầy đủ vũ trang;[22] phía Ba Tư có lẽ là với bộ binh được trang bị nhẹ hơn.[36]

Trên chiến trường, dường như là đợt tầu đầu tiên của hạm đội Ba Tư đã bị đẩy lùi bởi người Hy Lạp, họ đã trở thành chướng ngại vật cho các đợt tiến thứ hai và thứ ba của chính đồng đội của họ.[37] Phía cánh trái của Hy Lạp, Ariabignes đô đốc Ba Tư (một người anh em của Xerxes)[37] đã bị giết ngay từ lúc đầu trận, để lại một tình trạng hỗn loạn do không có người lãnh đạo, các hải đội Phoenicia dường như đã bị đẩy lùi về phía bờ biển, nhiều tàu của họ bị mắc cạn khi bỏ chạy.[22] Ở trung tâm, một mũi dùi của tàu Hy Lạp đã chọc xuyên qua hàng tầu chiến Ba Tư, chia tách hạm đội của họ làm hai phần.[22]

Herodotus kể lại rằng nữ hoàng của Halicarnassus, và chỉ huy của đội ngũ Carian, thấy rằng mình bị truy đuổi bởi tàu Ameinias của Pallene. Trong lúc bỏ chạy tầu của bà ta đã đâm phải một tàu Ba Tư khác, do đó làm cho các đội trưởng của Athens nghĩ rằng đây chiếc tàu của đồng minh; Ameinias đã thôi không đuổi theo nữa.[38] Tuy nhiên, Xerxes nhìn thấy và nghĩ rằng nữ hoàng đã tấn công tàu Đồng Minh thành công và ông ta cũng thấy khả năng kém của các đội trưởng khác của mình nên đã nhận xét "đàn ông của tôi đã trở thành đàn bà và đàn bà của tôi lại chở thành đàn ông".[39]

Hạm đội Ba Tư đã bắt đầu rút lui về phía Phalerum, nhưng theo Herodotus, các tầu của người Aegineta phục kích họ, khi họ đang cố gắng để rời khỏi eo biển.[40] Các tàu trở lại được bến cảng Phalerum và nơi đóng quân của quân đội Ba Tư đều bị thương.[41] Tướng Aristides của Athena sau đó dùng một đội quân đổ bộ lên đảo Psyttaleia để giết sạch các toán đồn trú mà Xerxes bỏ lại.[42] Thương vong của Ba Tư không được đề cập một cách chính xác theo ghi chép của Herodotus. Tuy nhiên, ông nói rằng vào năm sau, hạm đội Ba Tư chỉ còn lại 300 tàu Trireme.[43] Số thiệt hại phụ thuộc vào số lượng tàu thuyền của Ba Tư bắt đầu cuộc chiến; dường như rất có khả năng là trong khoảng 200-300 chiếc, dựa trên trên ước tính cho số lượng của hạm đội Ba Tư. Theo Herodotus, người Ba Tư bị thương vong nhiều hơn vì hầu hết họ không biết bơi.[37] Xerxes, ngồi trên núi Aigaleos trên ngai vàng của mình, đã tận mắt chứng kiến sự tàn sát.[44] Một số thuyền trưởng tầu đắm người Phoenicia đã cố gắng đổ lỗi cho người Ionia vì tính nhát gan trước khi kết thúc trận đánh. Xerxes, trong lúc tâm trạng tồi tệ đã chứng kiến một tàu Ionia bắt giữ một tàu Aegineta, đã ra lệnh trặt đầu những người Phoenicia vì tội đã vu khống cho "những người có dòng máu quý tộc" hơn họ.[44]

Hậu quả

Cột rắn, biểu tượng của liên minh Hy Lạp, được dựng nên sau chiến thắng tại Plataea; hiện đang nằm tại Trường đua Constantinopolis

Bất chấp những hậu quả trước mắt từ trận Salamis, Xerxes đã cố gắng xây dựng một cầu phao hoặc đường đắp cao vượt qua eo biển, mục đích sử dụng quân đội của mình để tấn công Athen, tuy nhiên hạm đội Hy Lạp bây giờ đang tuần tra một cách tự tin xung quanh eo biển, điều này chứng tỏ có cố gắng tiếp cũng vô ích. Herodotus cho chúng ta biết Xerxes đã tổ chức một hội đồng chiến tranh. Lúc đó Đô đốc của Ba Tư, tướng Mardonius cố gắng làm rõ ý nghĩa của thất bại ở trận Salamis:

Tâu bệ hạ, không ai không thể không đau khổ vì những gì đã xảy đến với chúng ta. Nhưng thưa ngài người và ngựa của chúng ta không phải là gỗ đá, … Nếu như bệ hạ muốn bây giờ, chúng tôi sẽ tấn công Peloponnesus ngay lập tức, nhưng tốt hơn ngài nên kiên trì chờ đợi và rồi thì chúng ta vẫn sẽ làm được điều ta muốn... Tốt nhất thì ngài nên làm theo điều hạ thần đã nói, nhưng nếu ngài vẫn kiên quyết dẫn quân đội tiến lên thì hạ thần vẫn một kế hoạch tác chiến khác. Nhưng không nên thưa bệ hạ, dẫn quân đội Ba Tư vào tiếp tục cuộc chiến với người Hy Lạp, ngài sẽ phải chịu nhiều hiểm nguy, đó không phải là do lỗi của người Ba Tư. Ngài cũng không thể nói rằng những việc chúng tôi đã làm ở đây ít dũng cảm hơn bất cứ người nào khác, như Phoenicia, Ai Cập, Cypria và Cilicia có thể làm được, không phải là người Ba Tư là nguyên nhân cho tất cả tai họa này, nhưng người Ba Tư không thể đổ lỗi cho ai cả, hãy trao quyền chỉ huy cho thần, nếu bệ hạ cảm thấy không ở lại đây nữa, hãy quay về nhà với phần lớn của quân đội của ngài. Thần sẽ tiêu diệt người Hylạp và biến chúng thành nô lệ của ngài.[45]

Vì lo ngại rằng người Hy Lạp có thể tấn công các cầu phao tại Hellespont và nhốt chặt quân đội của mình ở tại Châu Âu, Xerxes đã chọn cách quay về Ba Tư, với phần lớn quân đội của ông ta.[46] Mardonius chỉ huy các toán quân tiếp tục đóng lại cùng với ông ta tại Hy Lạp, bao gồm các đơn vị bộ binh và kỵ binh, để hoàn tất cuộc chinh phục của Hy Lạp. Quân Ba Tư bỏ rơi Attica nhưng chỉ để trú đông tại Boeotia và Thessaly, người Athens đã quay trở lại thành phố bị đốt cháy của họ trong mùa đông.

Năm sau, 479 TCN, Mardonius lại tái chiếm Athens (quân đội Đồng Minh vẫn tập trung để bảo vệ eo đất Isthmus). Tuy nhiên, quân Đồng Minh, dưới sự lãnh đạo của thành bang Sparta, cuối cùng đã nhất trí để ép Mardonius vào một trận đánh quyết định, và họ hành quân về Attica.[47] Mardonius rút lui về Boeotia để thu hút người Hy Lạp vào một địa hình rộng rãi và hai bên cuối cùng đã gặp nhau tại gần thành phố Plataea (vốn đã được san bằng vào năm trước đó) [47] Ở đó, trận Plataea, quân đội Hy Lạp đã giành một chiến thắng quyết định, tiêu diệt nhiều đội quân Ba Tư và kết thúc cuộc xâm lược vào Hy Lạp; trong khi ở trận gần đồng thời Mycale, hạm đội Đồng minh tiêu diệt những gì còn lại của hạm đội Ba Tư.

Xem thêm

  • Trận Myeongnyang - một trận chiến mà hải quân Triều Tiên đánh bại hạm đội xâm lược Nhật Bản vốn lớn hơn rất nhiều


Tham khảo

  1. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên VIII48
  2. ^ a b Holland, các trang 47–55
  3. ^ a b Holland, tr. 203
  4. ^ Herodotus V, 105
  5. ^ a b Holland, các trang 171–178
  6. ^ Herodotus VI, 44
  7. ^ a b c Holland, các trang 178–179
  8. ^ Herodotus VI, 101
  9. ^ Herodotus VI, 113
  10. ^ Holland, các trang 206–206
  11. ^ a b Holland, các trang 208–211
  12. ^ Herodotus VII, 35
  13. ^ Holland, các trang 217–223
  14. ^ Herodotus VII, 32
  15. ^ Herodotus VII, 145
  16. ^ Holland, tr. 226
  17. ^ a b Herodotus VIII 85
  18. ^ a b Diodorus Siculus, Biblioteca Historica XI, 18
  19. ^ a b Lazenby, tr. 187
  20. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên L184
  21. ^ Herodotus VIII, 76
  22. ^ a b c d e f g h i j Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên h320
  23. ^ a b Lazenby, tr. 181
  24. ^ a b Lazenby, các trang 174–180
  25. ^ a b c Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên h310
  26. ^ Diodorus Siculus, Biblioteca Historica XI, 17
  27. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên h318
  28. ^ a b Herodotus VIII, 83
  29. ^ a b c Herodotus VIII, 84
  30. ^ Aesch. Pers. 402-5. Available at http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perseus%3Atext%3A1999.01.0011%3Acard%3D395. Editor's translation.
  31. ^ a b c Herodotus VIII, 94
  32. ^ Plutarch. Themistocles, 14
  33. ^ Herodotus VIII, 84; Macaulay translation cf. Godley translation
  34. ^ Herodotus VIII, 86
  35. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên L34
  36. ^ Herodotus VII, 184
  37. ^ a b c Herodotus VIII, 89
  38. ^ Herodotus VIII, 87
  39. ^ Herodotus VIII, 88
  40. ^ Herodotus VIII, 91
  41. ^ Herodotus VIII, 92
  42. ^ Herodotus VIII, 95
  43. ^ Herodotus VIII, 130
  44. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên VIII90
  45. ^ Herodotus VIII, 100
  46. ^ Herodotus VIII, 97
  47. ^ a b Holland, các trang 338–341

Tài liệu tham khảo

Nguồn cổ đại

Nguồn hiện đại

  • Burn, A.R. (1985). "Persia and the Greeks" in The Cambridge History of Iran, Volume 2: The Median and Achaemenid Periods, Ilya Gershevitch, ed. Cambridge University Press.
  • Fehling, D. (1989). Herodotus and His "Sources": Citation, Invention, and Narrative Art. Translated by J.G. Howie. Leeds: Francis Cairns.
  • Finley, Moses (1972). “Introduction”. Thucydides – History of the Peloponnesian War (translated by Rex Warner). Penguin. ISBN 0-14-044039-9.
  • Garoufalis, Demetrius N. (1998). Η ναυμαχία της Σαλαμίνας, η σύγκρουση που άλλαξε τον ρού της ιστορίας (The battle of Salamis, the conflict that changed the flow of history), Στρατιωτική Ιστορία (Military History) magazine, issue 24, August.
  • Green, Peter (1970). The Year of Salamis, 480–479 BC. London: Weidenfeld and Nicolson (ISBN 0-297-00146-9).
  • Green, Peter (1998). The Greco-Persian Wars. Berkeley: University of California Press (hardcover, ISBN 0-520-20573-1) (paperback, ISBN 0-520-20313-5).
  • Hanson, Victor Davis (2001). Carnage and Culture: Landmark Battles in the Rise of Western Power. New York: DoubleDay, 2001 (hardcover, ISBN 0-385-50052-1); New York: Anchor Books (paperback, ISBN 0-385-72038-6).
  • Ιστορία του Ελληνικού Έθνους (History of the Greek nation) vol Β, Εκδοτική Αθηνών (Editorial Athens) 1971.
  • Holland, Tom (2005). Persian Fire. London: Abacus (ISBN 978-0-349-11717-1).
  • Köster, A.J. (1934). Studien zur Geschichte des Antikes Seewesens. Klio Belheft 32.
  • Lazenby, JF. (1993). The Defence of Greece 490–479 BC. Aris & Phillips Ltd. (ISBN 0-85668-591-7).
  • Lee, Felicia R. (2006). A Layered Look Reveals Ancient Greek Texts The New York Times, 27 November 2006.
  • Pipes, David (1 tháng 9 năm 1998). “Herodotus: Father of History, Father of Lies”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2008.
  • Strauss, Barry (2004). The Battle of Salamis: The Naval Encounter That Saved Greece—and Western Civilization. New York: Simon and Schuster (hardcover, ISBN 0-7432-4450-8; paperback, ISBN 0-7432-4451-6).

Liên kết ngoài