Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phạm Ngọc Sang”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up, replaced: → (3), Thiếu uý → Thiếu úy, Trung uý → Trung úy (2), Đại uý → Đại úy (2), Cộng hoà → Cộng hòa (4) using AWB
n →‎Tham khảo: chú thích sách, replaced: Việt nam → Việt Nam, Trần Ngọc Thống → * {{chú thích sách |author=Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy |year=2011 |title=Lược sử quân lực Việt Nam Cộng h…
Dòng 53: Dòng 53:
==Tham khảo==
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
{{tham khảo}}
*''"Lược sử Quân lực Việt nam Cộng hòa"''. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy 2011
* {{chú thích sách |author=Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy |year=2011 |title=Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa |publisher=Hương Quê |isbn=978-0-9852-1820-1}} {{cần số trang}}


==Xem thêm==
==Xem thêm==

Phiên bản lúc 11:20, ngày 23 tháng 7 năm 2015

Phạm Ngọc Sang
Sinh12 tháng 8, 1931 (92 tuổi)
Mất11/30/2002
California, Hoa Kỳ
ThuộcViệt Nam Cộng Hòa
Quân chủngQuân lực Việt Nam Cộng Hòa
Năm tại ngũ1951 - 1975
Quân hàmChuẩn tướng
Đơn vịKhông quân
Chỉ huySư đoàn 6
Tham chiếnChiến tranh Việt Nam

Phạm Ngọc Sang (1931-2002), nguyên là một tướng lãnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa mang quân hàm Chuẩn Tướng. Ông xuất thân từ một trường chuyên đào tạo Sĩ quan trừ bị cho ngành bộ binh của Quân đội. Tuy nhiên, sau đó ông nộp đơn dự thí trúng tuyển vào Quân chủng Không quân và ông đã phục vụ ở Quân chủng này cho đến ngày cuối cùng của Chính thể Việt Nam Cộng hòa.

Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh ngày 12/8/1931 tại xã Bình Hoà, Gia Định, Nam phần Việt Nam. Năm 1950, ông tốt nghiệp chương trình Trung học Pháp tại trường Trung học Petrus Ký ở Sài Gòn. Ông là con 2 cụ Phạm Ngọc Bé và Nguyễn Thị Quờn.

Năm 1951: Thi hành lệnh động viên của Chính phủ Quốc gia Việt Nam, ông nhập ngũ vào Quân Đội Quốc Gia, mang số quân: 51/600.003. Theo học khoá 1 Lê Văn Duyệt trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức (khai giảng: 1/10/1951, mãn khoá: 1/6/1952). Tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường, phục vụ tại Trung đoàn 17 bộ binh, đồn trú tại Trà Vinh. Tháng 10 cùng năm, ông trúng tuyển và được chuyển sang Quân chủng Không quân. Cuối năm này, ông được cử đi du học khoá huấn luyện Hoa tiêu Vận tải cơ DC.3 (C.47) và được huấn luyện thêm loại phi cơ T.6 tại trường Không quân Marrakech, Maroc. Qua tháng 8 năm 1953, chuyển sang căn cứ Không quân Avord, học lái phi cơ MD.312. Bước sang năm 1954, trung tuần thang 2, ông tốt nghiệp khoá Hoa tiêu và chuyển qua Blida, Algérie, học bắn và oanh tạc trên phi cơ MD.315. Tháng 5 cùng năm, thụ huấn chuyển tiếp trên DC.4 (C.54) tại Orleans, Pháp. Sau đó ông được thụ huấn thêm bằng Hoa tiêu Vận tải tại Trung tâm Huấn luyện Vận tải Toulouse, Pháp. Cuối năm ông được thăng cấp Trung úy.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Năm 1955: Trước khi diễn ra cuộc Tổng tuyển cử hình thành nền Đệ nhất Cộng hòa. Tháng 2, cùng với các Trung úy Huỳnh Hữu Hiền (sau là Đại tá Tư lệnh Không quân, giải ngũ 1963) và Lý Tri Tình là 3 Hoa tiêu đầu tiên của Không quân Việt Nam tốt nghiệp tại Trung tâm Toulouse mãn khoá. Sau khi hồi hương, ông tham gia vận chuyển đồng bào di cư từ miền Bắc vào Sài Gòn. Tháng 10 cùng năm ông được thăng cấp Đại úy giữ chức Chỉ huy trưởng Phi đội Liên lạc (trước là Phi đoàn 312 Đặc nhiệm, thành lập ngày 1/8/1951) thay thế Đại úy Huỳnh Hữu Hiền đi du học khoá huấn luyện viên Khu trục tại Pháp. Cuối năm, ông được tuyển chọn làm Phi công riêng cho Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Năm 1956: Du học khoá huấn luyện trên Vận tải cơ DC.4 tại căn cứ KQ Hickam Field, Honolulu, Hoa Kỳ. Năm 1957: Thăng Thiếu tá, hướng dẫn Phái đoàn KQ VNCH công du thăm viếng Hoa Kỳ.

Năm 1959: Ngày Quốc khánh năm thứ 4 của Đệ nhất Cộng hòa 26/10, ông được thăng cấpTrung tá. Qua năm 1961, ông được cử đi du học khoá Chỉ huy và Tham mưu tại Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ.

Năm 1964: Cuối năm, ông nhận chức Chỉ Huy Trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang thay thế Đại tá Lê Trung Trực. Qua năm 1965, bàn giao Trung tâm Huấn luyện lại cho Trung tá Nguyễn Văn Ngọc (sinh 1931 tại Hà Nội, tốt nghiệp khoá 2 Thủ Đức, cuối cùng là Đại tá Tham mưu phó bộ tư lệnh không quân) để đi nhận chức Tư lệnh Không đoàn 33 Chiến thuật tại căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt.

Năm 1966: Ông được điều chuyển về lĩnh vực văn phòng, giữ chức Chánh võ phòng Phủ Chủ tịch Uỷ ban Hành pháp Trung ương (Phủ Thủ tướng).

Năm 1970: Ông được thăng cấp Đại tá và được cử theo học khoá Cao đẳng Quốc phòng tại Đà Lạt. Cùng năm chuyển về Bộ Quốc phòng làm chuyên viên nghiên cứu. Qua năm 1971, được cử đi du học khoá Quản trị Quốc phòng tại trường Navy Post Graduate School ở Monterey, California, Hoa Kỳ.

Năm 1972: Tháng 10, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Không quân tân lập thứ 6 của Không lực Việt Nam Cộng hòa tại Pleiku. Năm 1973: Ông được tuyên dương công trạng trước Quân đội kèm theo Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu.

Năm 1974: Ông được vinh thăng cấp Chuẩn Tướng tại nhiệm.

1975

Ngày 15-3, được lệnh di tản chiến thuật Sư đoàn 6 Không quân từ Pleiku xuống Phan Rang.

Trưa ngày 16-4, bị quân Giải phóng bắt cùng với Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, bị tạm giam tại Cam Lâm, Khánh Hoà rồi Đà Nẵng, cuối cùng bị đưa ra Bắc qua các trại giam: Sơn Tây, Hoàng liên Sơn, Hà Tây, Hà Sơn Bình, Nam Hà. Sau đó, ngày 31/11/198 được đưa về miền Nam giam giữ ở trại Z30.D Hàm Tân, Bình Thuận. Cho đến ngày 11/2/1992 mới được trả tự do.

Năm 1993: Ngày 22/2, cùng với gia đình (theo diện H.O) xuất cảnh định cư tại Garden Grove, California, Hoa Kỳ.

Ngày 30/11/2002, ông từ trần tại nơi định cư.

Gia đình

  • Phu nhân: Bà Nguyễn Thị Bôn (Sn: 1933) (Ông bà có 5 người con gồm: 3 trai, 2 gái).

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa. Hương Quê. ISBN 978-0-9852-1820-1.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết) [cần số trang]

Xem thêm

Chú thích