Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Nga – Thụy Điển (1808–1809)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “'''Chiến tranh Nga-Thụy Điển (1808–1809)''' là cuôc chiến tranh giữa đế quốc NgaThụy Điển tranh dành địa vị thống tr…”
 
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 3: Dòng 3:
Cuộc chiến tranh bắt đầu vào ngày 21 tháng 2 1808 bằng cuộc tấn công của quân đội Nga vào Phần Lan. Quân đội Nga với số lính là 24.000 quân đông hơn là quân đội của Thụy Điển-Phần Lan (13.000 + 8.000 người). Nga đã đạt được nhiều chiến thắng, (Thụy Điển lúc đó được chỉ huy bởi tướng [[Johan August Sandels]]), và chiếm đóng [[Helsingfors]], [[Tavastehus]], vùng ven biển giữa [[Åbo]] và [[Vaasa|Vasa]], quần đảo [[Åland]], đảo [[Gotland]] và thành trì [[Sveaborg]]. Sau khi Anh tham dự vào cuộc chiến một thời gian quân Nga phải từ bỏ các đảo đã chiếm, một vài thành phố trên đất liên và quay ra phòng thủ.
Cuộc chiến tranh bắt đầu vào ngày 21 tháng 2 1808 bằng cuộc tấn công của quân đội Nga vào Phần Lan. Quân đội Nga với số lính là 24.000 quân đông hơn là quân đội của Thụy Điển-Phần Lan (13.000 + 8.000 người). Nga đã đạt được nhiều chiến thắng, (Thụy Điển lúc đó được chỉ huy bởi tướng [[Johan August Sandels]]), và chiếm đóng [[Helsingfors]], [[Tavastehus]], vùng ven biển giữa [[Åbo]] và [[Vaasa|Vasa]], quần đảo [[Åland]], đảo [[Gotland]] và thành trì [[Sveaborg]]. Sau khi Anh tham dự vào cuộc chiến một thời gian quân Nga phải từ bỏ các đảo đã chiếm, một vài thành phố trên đất liên và quay ra phòng thủ.


Trận thắng duy nhất của Thụy Điển là vào ngày 27 tháng 10 1808 tại [[trận cầu Virta]] (Koljonvirta), trong đó nhũng sĩ quan của tướng Sandels đại tá Fahlander, trung tá Malm cũng như trung tá Joachim Zachris Duncker đã đóng một vai trò quan trọng. Một cuôc phản công của Nga vào tháng 3 1809 đã chuyển những trận đánh này từ Phần Lan về Thụy Điển. Tại trận đánh gần [[Piteå]] vào ngày 25 tháng 8 1809 quân đội chính của Thuy Điển bị đánh bại và trên thực tế đã phải đầu hàng. Vào ngày 2 tháng 9 hai bên quyết định đình chiến tại [[Förstkåge]] và sau đó chấm dứt cuộc chiến qua [[hiệp ước Fredrikshamn]] vào ngày 17 tháng 9 1809. Qua hiệp ước này Nga đã đảm bảo được thế lực trong khu vực [[biển Baltic]]. Phần Lan trở thành [[đại công quốc Phần Lan]], một vùng tự trị trong đế quốc Nga. [[Liên minh cá nhân]] này với Nga kéo dài tới khi nga hoàng [[Nikolaus II]] từ bỏ ngôi vua 1917.
Trận thắng duy nhất của Thụy Điển là vào ngày 27 tháng 10 1808 tại [[trận cầu Virta]] (Koljonvirta), trong đó nhũng sĩ quan của tướng Sandels đại tá Fahlander, trung tá Malm cũng như trung tá Joachim Zachris Duncker đã đóng một vai trò quan trọng. Một cuôc phản công của Nga vào tháng 3 1809 đã chuyển những trận đánh này từ Phần Lan về Thụy Điển. Tại trận đánh gần [[Piteå]] vào ngày 25 tháng 8 1809 quân đội chính của Thuy Điển bị đánh bại và trên thực tế đã phải đầu hàng. Vào ngày 2 tháng 9 hai bên quyết định đình chiến tại [[Förstkåge]] và sau đó chấm dứt cuộc chiến qua [[hiệp ước Fredrikshamn]] vào ngày 17 tháng 9 1809. Qua hiệp ước này Nga đã đảm bảo được thế lực trong khu vực [[biển Baltic]]. Phần Lan trở thành [[đại công quốc Phần Lan]], một vùng tự trị trong đế quốc Nga. [[Liên minh cá nhân]] này với Nga kéo dài tới khi nga hoàng [[Nikolai II của Nga|Nikolaus II]] từ bỏ ngôi vua 1917.


== Thư mục ==
== Thư mục ==

Phiên bản lúc 12:14, ngày 16 tháng 8 năm 2015

Chiến tranh Nga-Thụy Điển (1808–1809) là cuôc chiến tranh giữa đế quốc NgaThụy Điển tranh dành địa vị thống trị nước Phần Lan lúc đó thuộc Thuy Điển. Bối cảnh là hòa ước Tilsit, qua đó Nga tham dự vào cuộc Cấm vận lục địa của Napoleon chống lại Vương quốc Anh (Chiến tranh Anh-Nga (1807–1812)), mà lúc đó là đồng minh của Thụy Điển. Nga nỗ lực nhằm để kiểm soát vịnh Phần Lan, để mà có thể bảo vệ thủ đô Sankt Petersburg chống lại những tấn công có thể xảy ra của Anh. Lúc đó, đồng minh của Nga là Đan Mạch.

Cuộc chiến tranh bắt đầu vào ngày 21 tháng 2 1808 bằng cuộc tấn công của quân đội Nga vào Phần Lan. Quân đội Nga với số lính là 24.000 quân đông hơn là quân đội của Thụy Điển-Phần Lan (13.000 + 8.000 người). Nga đã đạt được nhiều chiến thắng, (Thụy Điển lúc đó được chỉ huy bởi tướng Johan August Sandels), và chiếm đóng Helsingfors, Tavastehus, vùng ven biển giữa ÅboVasa, quần đảo Åland, đảo Gotland và thành trì Sveaborg. Sau khi Anh tham dự vào cuộc chiến một thời gian quân Nga phải từ bỏ các đảo đã chiếm, một vài thành phố trên đất liên và quay ra phòng thủ.

Trận thắng duy nhất của Thụy Điển là vào ngày 27 tháng 10 1808 tại trận cầu Virta (Koljonvirta), trong đó nhũng sĩ quan của tướng Sandels đại tá Fahlander, trung tá Malm cũng như trung tá Joachim Zachris Duncker đã đóng một vai trò quan trọng. Một cuôc phản công của Nga vào tháng 3 1809 đã chuyển những trận đánh này từ Phần Lan về Thụy Điển. Tại trận đánh gần Piteå vào ngày 25 tháng 8 1809 quân đội chính của Thuy Điển bị đánh bại và trên thực tế đã phải đầu hàng. Vào ngày 2 tháng 9 hai bên quyết định đình chiến tại Förstkåge và sau đó chấm dứt cuộc chiến qua hiệp ước Fredrikshamn vào ngày 17 tháng 9 1809. Qua hiệp ước này Nga đã đảm bảo được thế lực trong khu vực biển Baltic. Phần Lan trở thành đại công quốc Phần Lan, một vùng tự trị trong đế quốc Nga. Liên minh cá nhân này với Nga kéo dài tới khi nga hoàng Nikolaus II từ bỏ ngôi vua 1917.

Thư mục

  • Philip J. Haythornthwaite: The Russian army of the Napoleonic Wars. 2 Bände. Osprey Publishing, London 1987;
  • Bertil Nelsson: Duncker och Savolaxbrigaden. Finska kriget 1808–09. Historiska Media, Lund 2000, ISBN 91-88930-81-5.
  • Fred Sandsted (Hrsg.): Between the Imperial Eagles. Swedens armed forces during the Revolutionary and Napoleonic wars 1780–1820 (= Armémuseum. Meddelande. Bd. 58/59, 1998/99). Armémuseum, Stockholm 2000, ISBN 91-86478-23-0.

Liên kết ngoài

Tham khảo