Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phil Collins”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Tham khảo: clean up, replaced: {{commonscat → {{thể loại Commons using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 8: Dòng 8:
|Genre = [[Progressive rock]], [[Rock]], [[pop rock]], [[Pop]]
|Genre = [[Progressive rock]], [[Rock]], [[pop rock]], [[Pop]]
|Instrument = [[hát]]<br />[[trống]]<br />[[Dương cầm|Piano]]<br />[[Keyboard instrument|Keyboards]]<br />[[Percussion]]<br />[[Trumpet]]<br />
|Instrument = [[hát]]<br />[[trống]]<br />[[Dương cầm|Piano]]<br />[[Keyboard instrument|Keyboards]]<br />[[Percussion]]<br />[[Trumpet]]<br />
|Years_active = 1968-2008
|Years_active = 1968-2011
|Label = [[Virgin Records|Virgin]]<br />[[Atlantic Records|Atlantic]]
|Label = [[Virgin Records|Virgin]]<br />[[Atlantic Records|Atlantic]]
|Associated_acts = [[Genesis (ban nhạc)|Genesis]]<br />[[Brand X]]<br />[[Flaming Youth (ban nhạc)|Flaming Youth]] <br /> [[Phillip Bailey]]
|Associated_acts = [[Genesis (ban nhạc)|Genesis]]<br />[[Brand X]]<br />[[Flaming Youth (ban nhạc)|Flaming Youth]] <br /> [[Phillip Bailey]]
|URL = [http://www.philcollins.co.uk philcollins.co.uk]}}
|URL = [http://www.philcollins.co.uk philcollins.co.uk]}}


'''Philip David Charles "Phil" Collins''' (sinh ngày [[30 tháng 1]] năm [[1951]] tại [[Chiswick]], [[Luân Đôn|London]]) là một ca sĩ theo dòng [[rock|nhạc Rock]] và [[Pop]], đồng thời cũng là một [[nhạc sĩ]] và [[diễn viên]] người [[Anh]]. Anh vừa là một nghệ sĩ ''solo'' và cũng rất quen thuộc chơi trống cho ban nhạc Rock [[Genesis (ban nhạc)|Genesis]].
'''Philip David Charles "Phil" Collins''' (sinh ngày [[30 tháng 1]] năm [[1951]] tại [[Chiswick]], [[Luân Đôn|London]]) là một ca sĩ theo dòng [[rock|nhạc Rock]] và [[Pop]], đồng thời cũng là một [[nhạc sĩ]] và [[diễn viên]] người [[Anh]]. Ông vừa là một nghệ sĩ ''solo'' và cũng rất quen thuộc chơi trống cho ban nhạc Rock [[Genesis (ban nhạc)|Genesis]].


Trong vòng 6 năm, từ 1984 đến 1989 Collins đã 7 lần đoạt được vị trí số 1 trong bình trọn [[Billboard Hot 100]] của Mỹ; thêm vào đó là lần xếp thứ nhất với Genesis ''(Invisible Touch)''.
Trong vòng 6 năm, từ 1984 đến 1989 Collins đã 7 lần đoạt được vị trí số 1 trong bình trọn [[Billboard Hot 100]] của Mỹ; thêm vào đó là lần xếp thứ nhất với Genesis ''(Invisible Touch)''.


Với phong cách đa dạng của Collins được thể hiện rõ nét trong các singles của anh. Có những bài mang phong cách trống làm chủ như ''[[In the Air Tonight]]'', đến những bài mang nhịp điệu Pop ''Sussudio'' hay mang đậm tính phản ánh chính trị, xã hội của ''[[Another Day in Paradise]]'', ca khúc đến nay được cho là thành công nhất của anh. Không chỉ có vậy, những ca khúc về tình yêu và nỗi sầu đau cũng hay là những chủ đề được thể hiện. Sự nổi tiếng của Collins trên quốc tế đã ảnh hưởng khá nhiều cho thành công của Genesis. Theo [[Atlantic Records]] thì Collins đến năm 2002 với vị trí ''solo'' của mình đã bán ra được trên 100 triệu đĩa nhạc trên toàn thế giới.
Với phong cách đa dạng của Collins được thể hiện rõ nét trong các singles của anh. Có những bài mang phong cách trống làm chủ như ''[[In the Air Tonight]]'', đến những bài mang nhịp điệu Pop ''Sussudio'' hay mang đậm tính phản ánh chính trị, xã hội của ''[[Another Day in Paradise]]'', ca khúc đến nay được cho là thành công nhất của ông. Không chỉ có vậy, những ca khúc về tình yêu và nỗi sầu đau cũng hay là những chủ đề được thể hiện. Sự nổi tiếng của Collins trên quốc tế đã ảnh hưởng khá nhiều cho thành công của Genesis. Theo [[Atlantic Records]] thì Collins đến năm 2002 với vị trí ''solo'' của mình đã bán ra được trên 100 triệu đĩa nhạc trên toàn thế giới.


== Tiểu sử ==
== Tiểu sử ==
=== Thời niên thiếu ===
=== Thời niên thiếu ===
Nhạc cụ đầu tiên mà Collins nhận được là một bộ trống đồ chơi vào [[Lễ Giáng Sinh|Giáng Sinh]] hồi anh mới 5 tuổi. Sau đó với sự giúp đỡ của cậu anh, đã làm cho anh một bộ gõ thực sự, qua đó nó đã giúp anh luyện tập là nâng cao khả năng của mình. Collins luyện chơi không theo một giáo trình nào cả, ngay cả cách đọc và viết của nốt nhạc anh cũng không được học qua, chủ yếu là học theo cách chơi mà anh học được trên tivi, và trên đài với hệ thống nốt nhạc mà anh tự chế.
Nhạc cụ đầu tiên mà Collins nhận được là một bộ trống đồ chơi vào [[Lễ Giáng Sinh|Giáng Sinh]] hồi ông mới 5 tuổi. Sau đó với sự giúp đỡ của cậu ông, đã làm cho ông một bộ gõ thực sự, qua đó nó đã giúp ông luyện tập là nâng cao khả năng của mình. Collins luyện chơi không theo một giáo trình nào cả, ngay cả cách đọc và viết của nốt nhạc ông cũng không được học qua, chủ yếu là học theo cách chơi mà ông học được trên tivi, và trên đài với hệ thống nốt nhạc mà ông tự chế.


Trong cuộc đời anh, anh luôn coi trọng nghề diễn viên của mình và thường dùng mọi cách để có thể lên được màn ảnh. Đến độ 14 anh học tại trường điện ảnh Barbara Speake và sau đó tham gia vai chính (Artful Dodger) đầu tiên trong vở nhạc kịch [[Oliver!]] do Westend-Produktion sản xuất. Trong Beatles-Film [[Yeah Yeah Yeah]] anh nắm giữ một vai phụ và ngoài ra tham gia lồng tiếng cho vai diễn Romeo trong phim [[Romeo và Julia (1968)]].
Trong cuộc đời ông, ông luôn coi trọng nghề diễn viên của mình và thường dùng mọi cách để có thể lên được màn ảnh. Đến năm 14 tuổi, ông học tại trường điện ảnh Barbara Speake và sau đó tham gia vai chính (Artful Dodger) đầu tiên trong vở nhạc kịch [[Oliver!]] do Westend-Produktion sản xuất. Trong Beatles-Film [[Yeah Yeah Yeah]], ông nắm giữ một vai phụ và ngoài ra tham gia lồng tiếng cho vai diễn Romeo trong phim [[Romeo và Julia (1968)]].


Mặc dù khởi đầu khá thuận lợi với nghề diễn viên, nhưng anh vẫn luôn tập trung vào ca nhạc. Trong thời gian ở trường ''Chiswick Community School'' anh thành lập ban nhạc ''The Real Thing'' và sau đó gia nhập ban ''The Freehold'' với ca khúc đầu tay ''Lying Crying Dying''. Năm 1969 anh cùng ban nhạc [[Flamming Youth]] nhận đươck hợp đầu sản xuất đĩa đầu tiên và phát hành Album ''Arc 2'', tuy Album này đã gây ảnh hưởng cho người nghe nhưng không được mua nhiều. Do không mấy thành công ví thế sau 1 năm anh band nhạc cũng đã tan giã sau khi lưu diễn.
Mặc dù khởi đầu khá thuận lợi với nghề diễn viên, nhưng ông vẫn luôn tập trung vào ca nhạc. Trong thời gian ở trường ''Chiswick Community School'' ông thành lập ban nhạc ''The Real Thing'' và sau đó gia nhập ban ''The Freehold'' với ca khúc đầu tay ''Lying Crying Dying''. Năm 1969, ông cùng ban nhạc [[Flamming Youth]] nhận được hợp đầu sản xuất đĩa đầu tiên và phát hành Album ''Arc 2'', tuy Album này đã gây ảnh hưởng cho người nghe nhưng không được mua nhiều. Do không mấy thành công ví thế sau 1 năm anh band nhạc cũng đã tan sau khi lưu diễn.

Năm 2011, Phil Collins chính thức giã từ sự nghiệp âm nhạc vì lý do sức khỏe.


=== Thành nghiệp với Genesis ===
=== Thành nghiệp với Genesis ===

Phiên bản lúc 14:39, ngày 22 tháng 8 năm 2015

Phil Collins
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinhPhillip David Charles Collins
Sinh30 tháng 1, 1951 (73 tuổi)
Nguyên quánChiswick, London, Anh
Thể loạiProgressive rock, Rock, pop rock, Pop
Nhạc cụhát
trống
Piano
Keyboards
Percussion
Trumpet
Năm hoạt động1968-2011
Hãng đĩaVirgin
Atlantic
Hợp tác vớiGenesis
Brand X
Flaming Youth
Phillip Bailey
Websitephilcollins.co.uk

Philip David Charles "Phil" Collins (sinh ngày 30 tháng 1 năm 1951 tại Chiswick, London) là một ca sĩ theo dòng nhạc RockPop, đồng thời cũng là một nhạc sĩdiễn viên người Anh. Ông vừa là một nghệ sĩ solo và cũng rất quen thuộc chơi trống cho ban nhạc Rock Genesis.

Trong vòng 6 năm, từ 1984 đến 1989 Collins đã 7 lần đoạt được vị trí số 1 trong bình trọn Billboard Hot 100 của Mỹ; thêm vào đó là lần xếp thứ nhất với Genesis (Invisible Touch).

Với phong cách đa dạng của Collins được thể hiện rõ nét trong các singles của anh. Có những bài mang phong cách trống làm chủ như In the Air Tonight, đến những bài mang nhịp điệu Pop Sussudio hay mang đậm tính phản ánh chính trị, xã hội của Another Day in Paradise, ca khúc đến nay được cho là thành công nhất của ông. Không chỉ có vậy, những ca khúc về tình yêu và nỗi sầu đau cũng hay là những chủ đề được thể hiện. Sự nổi tiếng của Collins trên quốc tế đã ảnh hưởng khá nhiều cho thành công của Genesis. Theo Atlantic Records thì Collins đến năm 2002 với vị trí solo của mình đã bán ra được trên 100 triệu đĩa nhạc trên toàn thế giới.

Tiểu sử

Thời niên thiếu

Nhạc cụ đầu tiên mà Collins nhận được là một bộ trống đồ chơi vào Giáng Sinh hồi ông mới 5 tuổi. Sau đó với sự giúp đỡ của cậu ông, đã làm cho ông một bộ gõ thực sự, qua đó nó đã giúp ông luyện tập là nâng cao khả năng của mình. Collins luyện chơi không theo một giáo trình nào cả, ngay cả cách đọc và viết của nốt nhạc ông cũng không được học qua, chủ yếu là học theo cách chơi mà ông học được trên tivi, và trên đài với hệ thống nốt nhạc mà ông tự chế.

Trong cuộc đời ông, ông luôn coi trọng nghề diễn viên của mình và thường dùng mọi cách để có thể lên được màn ảnh. Đến năm 14 tuổi, ông học tại trường điện ảnh Barbara Speake và sau đó tham gia vai chính (Artful Dodger) đầu tiên trong vở nhạc kịch Oliver! do Westend-Produktion sản xuất. Trong Beatles-Film Yeah Yeah Yeah, ông nắm giữ một vai phụ và ngoài ra tham gia lồng tiếng cho vai diễn Romeo trong phim Romeo và Julia (1968).

Mặc dù khởi đầu khá thuận lợi với nghề diễn viên, nhưng ông vẫn luôn tập trung vào ca nhạc. Trong thời gian ở trường Chiswick Community School ông thành lập ban nhạc The Real Thing và sau đó gia nhập ban The Freehold với ca khúc đầu tay Lying Crying Dying. Năm 1969, ông cùng ban nhạc Flamming Youth nhận được hợp đầu sản xuất đĩa đầu tiên và phát hành Album Arc 2, tuy Album này đã gây ảnh hưởng cho người nghe nhưng không được mua nhiều. Do không mấy thành công ví thế sau 1 năm anh band nhạc cũng đã tan rã sau khi lưu diễn.

Năm 2011, Phil Collins chính thức giã từ sự nghiệp âm nhạc vì lý do sức khỏe.

Thành nghiệp với Genesis

Tham khảo