Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Huỳnh Văn Lạc”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 3: Dòng 3:
Ông sinh ngày 27-2-1927 tại tỉnh Phú Yên, thuộc miền Duyên hải Trung phần Việt Nam trong một gia đình khá giả. Là con cụ Huỳnh Hiển và cụ Nguyễn Thị Vịnh. Ông đã tốt nghiệp Trung học phổ thông tại Quy Nhơn với văn bằng Tú tài 1. Sau đó làm giáo chức tại Phú Yên cho đến ngày gia nhập quân đội.
Ông sinh ngày 27-2-1927 tại tỉnh Phú Yên, thuộc miền Duyên hải Trung phần Việt Nam trong một gia đình khá giả. Là con cụ Huỳnh Hiển và cụ Nguyễn Thị Vịnh. Ông đã tốt nghiệp Trung học phổ thông tại Quy Nhơn với văn bằng Tú tài 1. Sau đó làm giáo chức tại Phú Yên cho đến ngày gia nhập quân đội.


Cuối tháng 3 năm 1953, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào '''Quân đội Quốc Gia''', mang số quân: 47/104.418. Theo học khoá 3 Đống Đa trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức ''(khai giảng ngày 1/4/1953, mãn khoá ngày 1/11/1953)''. Tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]] hiện dịch.
Cuối tháng 3 năm 1953, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào '''Quân đội Quốc Gia''', mang số quân: 47/104.418. Theo học khoá 3 Đống Đa trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức ''(khai giảng ngày 1/4/1953, mãn khoá ngày 1/12/1953)''. Tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]] hiện dịch.
*Cùng tốt nghiệp khoá 3 Thủ Đức với ông, sau này lên tướng còn có:
*Cùng tốt nghiệp khoá 3 Thủ Đức với ông, sau này lên tướng còn có:
# Thiếu tướng [[Nguyễn Khoa Nam]] (nguyên Tư lệnh Quân đoàn IV)
# Thiếu tướng [[Nguyễn Khoa Nam]] (nguyên Tư lệnh Quân đoàn IV)

Phiên bản lúc 03:24, ngày 12 tháng 9 năm 2015

Huỳnh Văn Lạc (1927), nguyên là một tướng lĩnh bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang quân hàm Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khoá đầu tại trường Sĩ quan Trừ bị do Quân đội Quốc gia được sự giúp đỡ của Quân đội Pháp mở ra ở Nam phần vào đầu thập niên 1950 với mục đích đào tạo sĩ quan người Việt để phục vụ trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Thời gian tại ngũ, ông được giữ những chức vụ ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, sau cùng ông vẫn trở về phục vụ trong các đơn vị bộ binh.

Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh ngày 27-2-1927 tại tỉnh Phú Yên, thuộc miền Duyên hải Trung phần Việt Nam trong một gia đình khá giả. Là con cụ Huỳnh Hiển và cụ Nguyễn Thị Vịnh. Ông đã tốt nghiệp Trung học phổ thông tại Quy Nhơn với văn bằng Tú tài 1. Sau đó làm giáo chức tại Phú Yên cho đến ngày gia nhập quân đội.

Cuối tháng 3 năm 1953, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc Gia, mang số quân: 47/104.418. Theo học khoá 3 Đống Đa trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức (khai giảng ngày 1/4/1953, mãn khoá ngày 1/12/1953). Tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch.

  • Cùng tốt nghiệp khoá 3 Thủ Đức với ông, sau này lên tướng còn có:
  1. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam (nguyên Tư lệnh Quân đoàn IV)
  2. Chuẩn tướng Nguyễn Văn Giàu (nguyên phụ tá Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia đặc trách An ninh)
  3. Chuẩn tướng Chung Tấn Phát (nguyên Chánh văn phòng Tổng thống Dương Văn Minh)

Ra trường, ông được chọn về đơn vị bộ binh tham gia mặt trận Atlante tại Tuy Hoà, Phú Yên trong chức vụ Đại đội trưởng trong Tiểu đoàn 607 khinh quân. Qua đầu năm 1954, ông được thăng cấp Trung úy và được cử làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 607.

Quân đội Việt Nam Cộng hoà

Năm 1955: Sau những cải đổi về mặt quân sự, Quân đội Quốc gia được cải danh thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Rồi những biến đổi về mặt chính trị, danh xưng Quốc gia Việt Nam được chuyển thành Việt Nam Cộng hòa dưới chính thể Cộng hoà Đệ nhất. Cuối năm này ông được thăng cấp Đại úy và được tuyển dụng làm sĩ quan Tuỳ viên cho Tổng thống Ngô Đình Diệm. Qua năm 1956, ông được thăng cấp Thiếu tá chuyển ra cao nguyên Trung phần giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Cơ quan Quân sự Kontum. Đầu năm 1958, ông được cử đi du học khoá Chỉ huy & Tham mưu và khoá Hành chính Dân sự vụ tại Leavenworth, Kansas và Fort Gordon, Kentucky, Hoa kỳ.

Đầu năm 1959, sau khi ở Mỹ về nước ông được chuyển đến phục vụ tại trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt (thời kỳ các khoá học có thời gian huấn luyện và đào tạo 4 năm), làm Liên đoàn trưởng Liên đoàn sinh viên sĩ quan các khoá: 14 Nhân Vị, 15 Lê Lợi, 16 Ấp Chiến Lược, 17 Lê Lai và 18 Bùi Ngươn Ngãi.

Cuối năm 1961, ông được chuyển về Phủ Tổng thống giữ chức Đại đội trưởng Đại đội Cận vệ kiêm Trưởng ban An ninh thay thế Thiếu tá Hoàng Đình Tư.

Năm 1963: Trong cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm của Hội đồng Quân nhân Cách mạng do tướng Dương Văn Minh cầm đầu. Ông đứng về phía chống lại quân đảo chính nên bị bắt giam. Đầu tháng 2 năm 1964, sau cuộc chỉnh lý nội bộ của tướng Nguyễn Khánh, ông được trả tự do và được trở lại Quân đội đồng thời bị thuyên chuyển về Sư đoàn 7 bộ binh ở Quân đoàn IV.

Ngáy 16 tháng 6 năm 1965, ông được thăng cấp Trung tá và được cử làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 12 thuộc Sư đoàn 7 do Chuẩn tướng Nguyễn Viết Thanh làm Tư lệnh. Qua năm 1968, ông được cử theo học khoá 1 Cao đẳng Quốc phòng tại Sài gòn. Tháng giêng năm 1969, ông được thăng cấp Đại tá và được cử làm Tham mưu trưởng Quân đoàn IV & Quân khu 4, dưới quyền Tư lệnh của Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh và sau đó là Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng.

Ngày 1 tháng 11 năm 1972, ông được vinh thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Qua năm 1973, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 9 bộ binh thay thế Thiếu tướng Trần Bá Di được cử giữ chức Tư lệnh phó Quân đoàn IV & Quân khu 4. Ông ở chức vụ này cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975

1975

Sau ngày 30-4-1975, ông trình diện ban Quân quản của Chính quyền Cách mạng tại Sài Gòn và bị đưa đi tù cải tạo cho đến tháng 2 năm 1988 mới được trả tự do.

Tháng 2 năm 1994, ông cùng gia đình xuất cảnh sang Mỹ theo diện H.O do Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh, định cư tại Sacramento, California, Hoa Kỳ.

Gia đình

  • Phu nhân: Bà Lê Tuyết Mai. Ông bà có 4 người con gái.

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa. Hương Quê. ISBN 978-0-9852-1820-1.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết) [cần số trang]