Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Từ Đạt”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n AlphamaEditor, thêm thể loại, Excuted time: 00:00:07.2120412
Dòng 1: Dòng 1:
[[Tập tin:Xu Da.jpg|nhỏ|Từ Đạt]]
[[Tập tin:Xu Da.jpg|nhỏ|Từ Đạt]]
'''Từ Đạt''' ([[chữ Hán]]: 徐達; 1332-1385), [[tên chữ|tự]] là '''Thiên Đức''', là danh tướng và là khai quốc công thần đời [[nhà Minh]]. Là một trong 18 anh em kết nghĩa của [[Minh Thái Tổ|Chu Nguyên Chương]] khi bắt đầu lập nghiệp. Từ Đạt cùng với [[Thang Hòa]], [[Thường Ngộ Xuân]] là những người có công lớn nhất giúp Chu Nguyên Chương lập lên nhà Minh sau khi đánh bại [[nhà Nguyên]] vào năm 1368. Từ Đạt sinh ra tại Từ Châu, nay là [[Hòa (huyện)|huyện Hòa]]. Tuy công lao lớn là vậy và lại là anh em kết nghĩa với Chu Nguyên Chương nhưng sau khi thống nhất Trung Quốc lên ngôi hoàng đế, ông cùng hầu hết những công thần đã bị Chu Nguyên Chương sát hại. Ông là cha vợ [[Minh Thành Tổ|Thành Tổ]], và là ông ngoại [[Minh Nhân Tông|Nhân Tông]]. Nhờ công lao đánh đuổi người Mông Cổ và mở rông bờ cõi về phía bắc cho nhà Minh, Từ Đạt được xem như là một trong các đại danh tướng của Trung Hoa phong kiến, xếp ngang hàng với các vị như [[Bạch Khởi]], [[Hàn Tín]], [[Vệ Thanh]] và [[Lý Tĩnh]].
'''Từ Đạt''' ([[chữ Hán]]: 徐達; 1332-1385), [[tên chữ|tự]] là '''Thiên Đức''', là danh tướng và là khai quốc công thần đời [[nhà Minh]]. Là một trong 18 anh em kết nghĩa của [[Minh Thái Tổ|Chu Nguyên Chương]] khi bắt đầu lập nghiệp. Từ Đạt cùng với [[Thang Hòa]], [[Thường Ngộ Xuân]] là những người có công lớn nhất giúp Chu Nguyên Chương lập lên nhà Minh sau khi đánh bại [[nhà Nguyên]] vào năm 1368. Từ Đạt sinh ra tại Từ Châu, nay là [[Hòa (huyện)|huyện Hòa]]. Tuy công lao lớn là vậy và lại là anh em kết nghĩa với Chu Nguyên Chương nhưng sau khi thống nhất Trung Quốc lên ngôi hoàng đế, ông cùng hầu hết những công thần đã bị Chu Nguyên Chương sát hại. Ông là cha vợ [[Minh Thành Tổ|Thành Tổ]], và là ông ngoại [[Minh Nhân Tông|Nhân Tông]]. Nhờ công lao đánh đuổi người Mông Cổ và mở rông bờ cõi về phía bắc cho nhà Minh, Từ Đạt được xem như là một trong các đại danh tướng của Trung Hoa phong kiến, xếp ngang hàng với các vị như [[Bạch Khởi]], [[Hàn Tín]], [[Vệ Thanh]] và [[Lý Tĩnh]].


== Sự nghiệp ==
== Sự nghiệp ==
Năm 1353, Từ Đạt tham gia khởi nghĩa [[Quân Khăn Đỏ|Hồng Cân]] và phục vụ dưới quyền Chu Nguyên Chương, một thủ lĩnh nghĩa quân đương thời. Từ Đạt đã giúp Chu Nguyên Chương đánh bại hầu hết các đối thủ như [[Trần Hữu Lượng]], [[Trương Sĩ Thành]],... để lập nên cơ nghiệp nhà Minh. Năm 1368, Chu Nguyên Chương lên ngôi ở Nam Kinh, tức là vua [[Minh Thái Tổ]], lấy hiệu là Hồng Vũ, đặt quốc hiệu là Đại Minh, phong cho Từ Đạt làm Đại tướng quân, tước Ngụy quốc công. Năm Hồng Vũ thứ 2 (1369), Từ Đạt cùng các tướng khác như Thường Ngộ Xuân, [[Lý Văn Trung]], [[Lam Ngọc]] dẫn 25 vạn đại quân bắc phạt đánh thẳng vào [[Bắc Kinh|Đại Đô]] [[nhà Nguyên]], ép vua [[Nguyên Huệ Tông]] phải chạy về thảo nguyên phía bắc, lập ra nhà [[Bắc Nguyên]].
Năm 1353, Từ Đạt tham gia khởi nghĩa [[Quân Khăn Đỏ|Hồng Cân]] và phục vụ dưới quyền Chu Nguyên Chương, một thủ lĩnh nghĩa quân đương thời. Từ Đạt đã giúp Chu Nguyên Chương đánh bại hầu hết các đối thủ như [[Trần Hữu Lượng]], [[Trương Sĩ Thành]],... để lập nên cơ nghiệp nhà Minh. Năm 1368, Chu Nguyên Chương lên ngôi ở Nam Kinh, tức là vua [[Minh Thái Tổ]], lấy hiệu là Hồng Vũ, đặt quốc hiệu là Đại Minh, phong cho Từ Đạt làm Đại tướng quân, tước Ngụy quốc công. Năm Hồng Vũ thứ 2 (1369), Từ Đạt cùng các tướng khác như Thường Ngộ Xuân, [[Lý Văn Trung]], [[Lam Ngọc]] dẫn 25 vạn đại quân bắc phạt đánh thẳng vào [[Bắc Kinh|Đại Đô]] [[nhà Nguyên]], ép vua [[Nguyên Huệ Tông]] phải chạy về thảo nguyên phía bắc, lập ra nhà [[Bắc Nguyên]].


Từ Đạt dẫn đại quân đuổi theo tàn quân Mông Cổ, trên đường truy kích đã gặp được [[Triều Tiên Thái Tổ|Lý Thành Quế]], tức là vua '''Triều Tiên Thái Tổ''' - vua khai quốc của [[nhà Triều Tiên]], người được lệnh của quân Mông Cổ phải đánh chặn Từ Đạt. Sự hiện diện của Từ Đạt khiến tướng lĩnh Triều Tiên hoảng sợ, thay vào đó họ đã liên minh với quân Minh. Sau đó Từ Đạt tiếp tục dẫn quân vào thảo nguyên Mông Cổ, tiêu diệt các lực lượng cứu viện của Mông Cổ, đánh vào thủ đô Mông Cổ là [[Karakorum]], bắt sống hàng ngàn quý tộc Mông Cổ vào năm 1370. Quân của Từ Đạt đã tiến vào Transbaikalia ([[Ngoại Baikal]]) và tiến xa hơn về phía bắc mà chưa có đội quân nào của Trung Quốc trước đó từng làm được.
Từ Đạt dẫn đại quân đuổi theo tàn quân Mông Cổ, trên đường truy kích đã gặp được [[Triều Tiên Thái Tổ|Lý Thành Quế]], tức là vua '''Triều Tiên Thái Tổ''' - vua khai quốc của [[nhà Triều Tiên]], người được lệnh của quân Mông Cổ phải đánh chặn Từ Đạt. Sự hiện diện của Từ Đạt khiến tướng lĩnh Triều Tiên hoảng sợ, thay vào đó họ đã liên minh với quân Minh. Sau đó Từ Đạt tiếp tục dẫn quân vào thảo nguyên Mông Cổ, tiêu diệt các lực lượng cứu viện của Mông Cổ, đánh vào thủ đô Mông Cổ là [[Karakorum]], bắt sống hàng ngàn quý tộc Mông Cổ vào năm 1370. Quân của Từ Đạt đã tiến vào Transbaikalia ([[Ngoại Baikal]]) và tiến xa hơn về phía bắc mà chưa có đội quân nào của Trung Quốc trước đó từng làm được.
Dòng 9: Dòng 9:
Minh Thái Tổ lúc đó muốn lấy lòng Từ Đạt nên đã lấy [[Nhân Hiếu Văn hoàng hậu|con gái lớn của ông]] gả cho con trai thứ tư của mình là Yên vuong [[Minh Thành Tổ|Chu Đệ]], tức là vua '''Minh Thành Tổ''' sau này. Từ Đạt sau đó được phái trấn thủ phía bắc, con rể ông Chu Đệ khi tiếp nhận phiên quốc của mình đã cùng ông xây dựng lại thành Bắc Bình (thành Bắc Kinh sau này). Minh Thái Tổ sợ Từ Đạt làm phản nên sau đó đã bắt ông giao lại binh quyền cho Chu Đệ và buộc ông phải trở về Nam Kinh.
Minh Thái Tổ lúc đó muốn lấy lòng Từ Đạt nên đã lấy [[Nhân Hiếu Văn hoàng hậu|con gái lớn của ông]] gả cho con trai thứ tư của mình là Yên vuong [[Minh Thành Tổ|Chu Đệ]], tức là vua '''Minh Thành Tổ''' sau này. Từ Đạt sau đó được phái trấn thủ phía bắc, con rể ông Chu Đệ khi tiếp nhận phiên quốc của mình đã cùng ông xây dựng lại thành Bắc Bình (thành Bắc Kinh sau này). Minh Thái Tổ sợ Từ Đạt làm phản nên sau đó đã bắt ông giao lại binh quyền cho Chu Đệ và buộc ông phải trở về Nam Kinh.


Từ Đạt mất vào năm 1385 và cái chết của ông làm dấy lên nhiều nghi vấn. Từ Đạt vốn không bị buộc tội mưu phản, trong khi các tướng lĩnh khai quốc của nhà Minh ngoại trừ Thường Ngộ Xuân chết sớm trước tuổi 40 ra thì hầu hết đều bị Minh Thái Tổ tru diệt chín họ với tội danh mưu phản. Tương truyền nói rằng Từ Đạt bị bệnh, thầy thuốc nói rằng phải kiêng món ngỗng. Minh Thái Tổ nghe vậy liền cho người đem một con ngỗng quay đến cho Từ Đạt, buộc ông ăn hết và chứng kiến ông chết. Cũng có thuyết nói rằng khi thấy vua tặng cho con ngỗng quay làm thức ăn, Từ Đạt đã hiểu ý vua và uống thuốc độc tự sát chết, giống như chuyện [[Tào Tháo]] giết [[Tuân Úc]] năm nào. Bấy giờ Từ Đạt mới 54 tuổi. Tuy nhiên đây chỉ là truyền thuyết, vẫn chưa chứng minh được.
Từ Đạt mất vào năm 1385 và cái chết của ông làm dấy lên nhiều nghi vấn. Từ Đạt vốn không bị buộc tội mưu phản, trong khi các tướng lĩnh khai quốc của nhà Minh ngoại trừ Thường Ngộ Xuân chết sớm trước tuổi 40 ra thì hầu hết đều bị Minh Thái Tổ tru diệt chín họ với tội danh mưu phản. Tương truyền nói rằng Từ Đạt bị bệnh, thầy thuốc nói rằng phải kiêng món ngỗng. Minh Thái Tổ nghe vậy liền cho người đem một con ngỗng quay đến cho Từ Đạt, buộc ông ăn hết và chứng kiến ông chết. Cũng có thuyết nói rằng khi thấy vua tặng cho con ngỗng quay làm thức ăn, Từ Đạt đã hiểu ý vua và uống thuốc độc tự sát chết, giống như chuyện [[Tào Tháo]] giết [[Tuân Úc]] năm nào. Bấy giờ Từ Đạt mới 54 tuổi. Tuy nhiên đây chỉ là truyền thuyết, vẫn chưa chứng minh được.


Từ Đạt mất đi, Minh Thái Tổ truy tặng cho ông tước vị '''Trung Sơn quận vương''', con trai trưởng ông là Từ Huy Tổ tập tước Ngụy quốc công. Tuy nhiên vào loạn Tĩnh Nan do Chu Đệ phát động nhằm chiếm ngôi của người cháu là [[Minh Huệ Đế|Chu Doãn Văn]], tức là vua '''Minh Huệ Đế''', Từ Huy Tổ đứng về phe Huệ Đế, cầm quân ra trận chống lại Chu Đệ nhưng thua trận nên tự sát. Người con trai thứ của Từ Đạt là Từ Tăng Thọ vốn theo phò Chu Đệ lúc Từ Đạt còn sống, sau khi cướp được ngai vàng Chu Đệ đã phong cho Từ Tăng Thọ làm Định quốc công. Người con trai út của Từ Đạt được Chu Đệ cho tập tước Ngụy quốc công và giao cho nhiệm vụ đời đời thay mặt nhà vua trấn thủ Nam Kinh. Nhà họ Từ một môn có hai vị quốc công, khắp triều nhà Minh hiển quý không ai bằng chính là hình tượng của hai phủ Ninh quốc công và Vinh quốc công trong tiểu thuyết [[Hồng lâu mộng]] của [[Tào Tuyết Cần]].
Từ Đạt mất đi, Minh Thái Tổ truy tặng cho ông tước vị '''Trung Sơn quận vương''', con trai trưởng ông là Từ Huy Tổ tập tước Ngụy quốc công. Tuy nhiên vào loạn Tĩnh Nan do Chu Đệ phát động nhằm chiếm ngôi của người cháu là [[Minh Huệ Đế|Chu Doãn Văn]], tức là vua '''Minh Huệ Đế''', Từ Huy Tổ đứng về phe Huệ Đế, cầm quân ra trận chống lại Chu Đệ nhưng thua trận nên tự sát. Người con trai thứ của Từ Đạt là Từ Tăng Thọ vốn theo phò Chu Đệ lúc Từ Đạt còn sống, sau khi cướp được ngai vàng Chu Đệ đã phong cho Từ Tăng Thọ làm Định quốc công. Người con trai út của Từ Đạt được Chu Đệ cho tập tước Ngụy quốc công và giao cho nhiệm vụ đời đời thay mặt nhà vua trấn thủ Nam Kinh. Nhà họ Từ một môn có hai vị quốc công, khắp triều nhà Minh hiển quý không ai bằng chính là hình tượng của hai phủ Ninh quốc công và Vinh quốc công trong tiểu thuyết [[Hồng lâu mộng]] của [[Tào Tuyết Cần]].


==Tiểu thuyết hóa==
==Tiểu thuyết hóa==
Dòng 36: Dòng 36:
{{Nguyên mạt Minh sơ}}
{{Nguyên mạt Minh sơ}}
{{thời gian sống|1332|1385}}
{{thời gian sống|1332|1385}}

[[Thể loại:Tướng nhà Minh]]
[[Thể loại:Tướng nhà Minh]]
[[Thể loại:Nhân vật quân sự nhà Minh]]

Phiên bản lúc 19:49, ngày 2 tháng 10 năm 2015

Từ Đạt

Từ Đạt (chữ Hán: 徐達; 1332-1385), tựThiên Đức, là danh tướng và là khai quốc công thần đời nhà Minh. Là một trong 18 anh em kết nghĩa của Chu Nguyên Chương khi bắt đầu lập nghiệp. Từ Đạt cùng với Thang Hòa, Thường Ngộ Xuân là những người có công lớn nhất giúp Chu Nguyên Chương lập lên nhà Minh sau khi đánh bại nhà Nguyên vào năm 1368. Từ Đạt sinh ra tại Từ Châu, nay là huyện Hòa. Tuy công lao lớn là vậy và lại là anh em kết nghĩa với Chu Nguyên Chương nhưng sau khi thống nhất Trung Quốc lên ngôi hoàng đế, ông cùng hầu hết những công thần đã bị Chu Nguyên Chương sát hại. Ông là cha vợ Thành Tổ, và là ông ngoại Nhân Tông. Nhờ công lao đánh đuổi người Mông Cổ và mở rông bờ cõi về phía bắc cho nhà Minh, Từ Đạt được xem như là một trong các đại danh tướng của Trung Hoa phong kiến, xếp ngang hàng với các vị như Bạch Khởi, Hàn Tín, Vệ ThanhLý Tĩnh.

Sự nghiệp

Năm 1353, Từ Đạt tham gia khởi nghĩa Hồng Cân và phục vụ dưới quyền Chu Nguyên Chương, một thủ lĩnh nghĩa quân đương thời. Từ Đạt đã giúp Chu Nguyên Chương đánh bại hầu hết các đối thủ như Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành,... để lập nên cơ nghiệp nhà Minh. Năm 1368, Chu Nguyên Chương lên ngôi ở Nam Kinh, tức là vua Minh Thái Tổ, lấy hiệu là Hồng Vũ, đặt quốc hiệu là Đại Minh, phong cho Từ Đạt làm Đại tướng quân, tước Ngụy quốc công. Năm Hồng Vũ thứ 2 (1369), Từ Đạt cùng các tướng khác như Thường Ngộ Xuân, Lý Văn Trung, Lam Ngọc dẫn 25 vạn đại quân bắc phạt đánh thẳng vào Đại Đô nhà Nguyên, ép vua Nguyên Huệ Tông phải chạy về thảo nguyên phía bắc, lập ra nhà Bắc Nguyên.

Từ Đạt dẫn đại quân đuổi theo tàn quân Mông Cổ, trên đường truy kích đã gặp được Lý Thành Quế, tức là vua Triều Tiên Thái Tổ - vua khai quốc của nhà Triều Tiên, người được lệnh của quân Mông Cổ phải đánh chặn Từ Đạt. Sự hiện diện của Từ Đạt khiến tướng lĩnh Triều Tiên hoảng sợ, thay vào đó họ đã liên minh với quân Minh. Sau đó Từ Đạt tiếp tục dẫn quân vào thảo nguyên Mông Cổ, tiêu diệt các lực lượng cứu viện của Mông Cổ, đánh vào thủ đô Mông Cổ là Karakorum, bắt sống hàng ngàn quý tộc Mông Cổ vào năm 1370. Quân của Từ Đạt đã tiến vào Transbaikalia (Ngoại Baikal) và tiến xa hơn về phía bắc mà chưa có đội quân nào của Trung Quốc trước đó từng làm được.

Minh Thái Tổ lúc đó muốn lấy lòng Từ Đạt nên đã lấy con gái lớn của ông gả cho con trai thứ tư của mình là Yên vuong Chu Đệ, tức là vua Minh Thành Tổ sau này. Từ Đạt sau đó được phái trấn thủ phía bắc, con rể ông Chu Đệ khi tiếp nhận phiên quốc của mình đã cùng ông xây dựng lại thành Bắc Bình (thành Bắc Kinh sau này). Minh Thái Tổ sợ Từ Đạt làm phản nên sau đó đã bắt ông giao lại binh quyền cho Chu Đệ và buộc ông phải trở về Nam Kinh.

Từ Đạt mất vào năm 1385 và cái chết của ông làm dấy lên nhiều nghi vấn. Từ Đạt vốn không bị buộc tội mưu phản, trong khi các tướng lĩnh khai quốc của nhà Minh ngoại trừ Thường Ngộ Xuân chết sớm trước tuổi 40 ra thì hầu hết đều bị Minh Thái Tổ tru diệt chín họ với tội danh mưu phản. Tương truyền nói rằng Từ Đạt bị bệnh, thầy thuốc nói rằng phải kiêng món ngỗng. Minh Thái Tổ nghe vậy liền cho người đem một con ngỗng quay đến cho Từ Đạt, buộc ông ăn hết và chứng kiến ông chết. Cũng có thuyết nói rằng khi thấy vua tặng cho con ngỗng quay làm thức ăn, Từ Đạt đã hiểu ý vua và uống thuốc độc tự sát chết, giống như chuyện Tào Tháo giết Tuân Úc năm nào. Bấy giờ Từ Đạt mới 54 tuổi. Tuy nhiên đây chỉ là truyền thuyết, vẫn chưa chứng minh được.

Từ Đạt mất đi, Minh Thái Tổ truy tặng cho ông tước vị Trung Sơn quận vương, con trai trưởng ông là Từ Huy Tổ tập tước Ngụy quốc công. Tuy nhiên vào loạn Tĩnh Nan do Chu Đệ phát động nhằm chiếm ngôi của người cháu là Chu Doãn Văn, tức là vua Minh Huệ Đế, Từ Huy Tổ đứng về phe Huệ Đế, cầm quân ra trận chống lại Chu Đệ nhưng thua trận nên tự sát. Người con trai thứ của Từ Đạt là Từ Tăng Thọ vốn theo phò Chu Đệ lúc Từ Đạt còn sống, sau khi cướp được ngai vàng Chu Đệ đã phong cho Từ Tăng Thọ làm Định quốc công. Người con trai út của Từ Đạt được Chu Đệ cho tập tước Ngụy quốc công và giao cho nhiệm vụ đời đời thay mặt nhà vua trấn thủ Nam Kinh. Nhà họ Từ một môn có hai vị quốc công, khắp triều nhà Minh hiển quý không ai bằng chính là hình tượng của hai phủ Ninh quốc công và Vinh quốc công trong tiểu thuyết Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần.

Tiểu thuyết hóa

Từ Đạt trong tiểu thuyết Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung là một giáo đồ của Minh giáo và là huynh đệ thân thiết của Chu Nguyên Chương. Sau khi bí mật trong Ỷ Thiên kiếm và Đồ Long đao được làm sáng tỏ, Trương Vô Kỵ đã đem binh pháp của Nhạc Phi - tức là Vũ Mục di thư (vốn giấu trong cây đao) giao cho Từ Đạt. Nhờ vậy ông đã trở thành danh tướng một thời.

Chú thích

Tham khảo

Tiền nhiệm:
Lý Thiện Trường
Tả Thừa tướng nhà Minh
1371
Kế nhiệm:
Hồ Duy Dung
Tiền nhiệm:
không có
Hữu Thừa tướng nhà Minh
1368 - 1371
Kế nhiệm:
Uông Quảng Dương