Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người Xơ Đăng”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
n AlphamaEditor, Excuted time: 00:00:06.5853388
Dòng 2: Dòng 2:
|group= Xơ Đăng
|group= Xơ Đăng
|poptime=
|poptime=
|popplace={{VIE}} 169,501 (2009)<ref>{{cite web|title=The 2009 Vietnam Population and Housing Census: Completed Results|url=http://www.gso.gov.vn/Modules/Doc_Download.aspx?DocID=12724 |publisher=General Statistics Office of Vietnam: Central Population and Housing Census Steering Committee|date=June 2010 |accessdate=26 November 2013|page=134}}</ref>
|popplace={{VIE}} 169,501 (2009)<ref>{{chú thích web|title=The 2009 Vietnam Population and Housing Census: Completed Results|url=http://www.gso.gov.vn/Modules/Doc_Download.aspx?DocID=12724 |publisher=General Statistics Office of Vietnam: Central Population and Housing Census Steering Committee|date=June 2010 |accessdate=ngày 26 tháng 11 năm 2013|page=134}}</ref>
|rels= [[Thuyết vật linh|Vật linh]]
|rels= [[Thuyết vật linh|Vật linh]]
|langs= [[tiếng Xơ Đăng|Xơ Đăng]], [[tiếng Việt|Việt]]
|langs= [[tiếng Xơ Đăng|Xơ Đăng]], [[tiếng Việt|Việt]]

Phiên bản lúc 10:40, ngày 5 tháng 10 năm 2015

Xơ Đăng
Khu vực có số dân đáng kể
Việt Nam 169,501 (2009)[1]
Ngôn ngữ
Xơ Đăng, Việt
Tôn giáo
Vật linh
Sắc tộc có liên quan
?
Trang phục dân tộc Xơ Đăng (ảnh chụp tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)

Người Xơ Đăng hay Xê Đăng, còn có tên gọi khác là Xơ Đeng, Ca Dong, Cà Dong, Tơ-dra, Hđang, Mơ-nâm, Hà Lăng, Ka Râng, Bri La Teng, Con Lan, là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.

Nhóm ngôn ngữ

Tiếng Xơ Đăng là ngôn ngữ thuộc Nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á.

Dân số và địa bàn cư trú

Người Xơ Đăng cư trú tập trung ở tỉnh Kon Tum, một số ít ở miền núi của tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Quảng Nam. Người Xơ Đăng có quan hệ gần gũi với người Giẻ Triêng, người Co, người Hrêngười Ba Na.

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Xơ Đăng ở Việt Nam có dân số 169.501 người, có mặt tại 41 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Xơ Đăng cư trú tập trung tại tỉnh Kon Tum (104.759 người, chiếm 24,4% dân số toàn tỉnh và 61,8% tổng số người Xơ Đăng tại Việt Nam), Quảng Nam (37.900 người, chiếm 22,4% tổng số người Xơ Đăng tại Việt Nam), Quảng Ngãi (17.713 người), Đắk Lắk (8.041 người), Gia Lai (705 người)[2]...

Đặc điểm kinh tế

Người Xơ Đăng làm rẫy là chính. Nhóm Mơ-nâm làm ruộng nước nhưng không cày bừa mà lại dùng sức trâu, sức người để giẫm nát đất. Họ chăn nuôi gia súc, gia cầm, săn bắn, hái lượm, đánh bắt cá, đan lát, dệt, rèn. Nhóm Tơ-dra có nghề rèn từ quặng sắt rất phát triển và nổi tiếng.

Tổ chức cộng đồng

Mỗi làng Xơ Đăng có nhà rông, có bãi mộ chôn người chết... Nhà cửa của dân làng quây quần bên nhau, mọi người gắn bó giúp đỡ nhau. Ông "già làng" được trọng nể nhất, là người điều hành mọi sinh hoạt chung trong làng và đại diện của dân làng.

Hôn nhân gia đình

Tên của người Xơ Đăng không có họ kèm theo, nhưng có từ chỉ định giới tính: nam là A, nữ là Y (ví dụ như là A Nhong, Y Hên). Trai gái lớn lên, sau khi đã cưa răng theo phong tục (ngày nay ít người còn theo phong tục này), được tìm hiểu, yêu nhau. Lễ cưới xin đơn giản. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng ở luân chuyển với từng gia đình mỗi bên ít năm, rất ít trường hợp ở hẳn một bên.

Văn hóa

Trong số các lễ cúng, lễ hội truyền thống của người Xơ Đăng, lễ đâm trâu được tổ chức long trọng nhất, đông vui nhất. Người Xơ Đăng thích hát múa, tấu chiêng cồng, chơi đàn, kể chuyện cổ. Đàn ông không chỉ có tinh thần thượng võ, mà còn tài nghệ trong kiến trúc, điêu khắc và hội họa, tạo nên những sản phẩm tiêu biểu, đó là ngôi nhà rông và cây nêu trong lễ đâm trâu.

Mỗi làng người Xơ Đăng đều có nhà rông, nóc và mái được tạo dáng như cánh buồm lớn hoặc lưỡi rìu khổng lồ ngửa lên trời. Có hình chim chèo bẻo hay hình sừng thú chót vót ở hai đầu đốc. Nhà rông được dân làng tạo dựng nên hoàn toàn bằng thảo mộc có sẵn ở địa phương. Kỹ thuật xây dựng chỉ là lắp ghép và chằng buộc, không hề dùng đến đinh sắt, dây thép... Nhà rông thực sự là công trình kiến trúc, một sản phẩm văn hóa, là trụ sở và câu lạc bộ trong làng của người Xơ Đăng.

Người Xơ Đăng có sự đối xử bình đẳng giữa nam và nữ, không phân biệt giữa con riêng và con chung, con đẻ và con nuôi, con của mình và con của anh em họ. Quan hệ làng bản khá đoàn kết, có tục kết nghĩa với người cùng tuổi hoặc cùng tên. Con cháu cùng họ không được phép kết hôn với nhau[3].

Trang phục

Tham khảo

  1. ^ “The 2009 Vietnam Population and Housing Census: Completed Results”. General Statistics Office of Vietnam: Central Population and Housing Census Steering Committee. tháng 6 năm 2010. tr. 134. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2013.
  2. ^ Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Hà Nội, 6-2010. Biểu 5, tr.134-225. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2011.
  3. ^ Theo cuốn "Sổ tay về các dân tộc ở Việt Nam" của Viện dân tộc học và Nhà xuất bản văn học, năm 2008, trang 65

Xem thêm

Liên kết ngoài