Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lâm Quang Thơ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
[[Tập tin:LamQuangTho.jpg|thumb]]

'''Lâm Quang Thơ''' (1931-1985), nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], mang quân hàm [[Thiếu tướng]]. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ bị do Chính phủ Quốc gia được sự hỗ trợ của Quân đội Liên hiệp Pháp mở ra tại nam cao nguyên Trung phần. Ra trường ông được chọn về binh chủng Thiết giáp. Ông đã phục vụ trong ngành chuyên môn của mình một thời gian dài. Sau đó ông được chuyển sang lĩnh vực Quân huấn và Chỉ huy Sư đoàn bộ binh.
'''Lâm Quang Thơ''' (1931-1985), nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], mang quân hàm [[Thiếu tướng]]. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ bị do Chính phủ Quốc gia được sự hỗ trợ của Quân đội Liên hiệp Pháp mở ra tại nam cao nguyên Trung phần. Ra trường ông được chọn về binh chủng Thiết giáp. Ông đã phục vụ trong ngành chuyên môn của mình một thời gian dài. Sau đó ông được chuyển sang lĩnh vực Quân huấn và Chỉ huy Sư đoàn bộ binh.
==Tiểu sử & Binh nghiệp==
==Tiểu sử & Binh nghiệp==

Phiên bản lúc 22:30, ngày 12 tháng 11 năm 2015

Tập tin:LamQuangTho.jpg

Lâm Quang Thơ (1931-1985), nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang quân hàm Thiếu tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ bị do Chính phủ Quốc gia được sự hỗ trợ của Quân đội Liên hiệp Pháp mở ra tại nam cao nguyên Trung phần. Ra trường ông được chọn về binh chủng Thiết giáp. Ông đã phục vụ trong ngành chuyên môn của mình một thời gian dài. Sau đó ông được chuyển sang lĩnh vực Quân huấn và Chỉ huy Sư đoàn bộ binh.

Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh ngày 8 tháng 2 năm 1931 tại Vĩnh Trạch, Bạc Liêu, miền tây Nam phần, Việt Nam trong một gia đình điền chủ khá giả. Song thân là cụ Lâm Quang Diệu và cụ Diệp Thị Hiền.

Ông còn hai người em cùng là sĩ quan trung và cao cấp trong Quân lực: Ông Lâm Quang Thi (khóa 3 Võ bị Đà Lạt, nguyên Trung tướng Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn I) và ông Lâm Quang Thới (khóa 10 Võ bị Đà Lạt, nguyên Thiếu tá Không quân).

Thời niên thiếu, ông học chương trình tiểu học tại Bạc Liêu, lên trung học tại trường Phan Thanh Giản, Càn Thơ. Năm 1949, tốt nghiệp trung học chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).

Tháng 9 năm 1950, ông cùng người em kế (Lâm Quang Thi) tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia trong Liên hiệp Pháp, mang số quân: 51/121.319. Cả hai đều trúng tuyển theo học khoá 3 Trần Hưng Đạo tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1950, mãn khoá ngày 1 tháng 7 năm 1951). Tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, về binh chủng Kỵ binh ông được tiếp tục theo học khóa căn bản Thiết giáp tại Trung tâm Huấn luyện Viễn đông của Quân đội Liên hiệp Pháp ở Vũng Tàu. Cuối năm 1952, ông được làm Chi đội trưởng trong Trung đoàn Thám thính xa. Qua đầu năm 1953, ông được thăng cấp Trung úy lên giữ chức chỉ huy phó Đại đội Thám thính.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Tháng 4 năm 1955, sau khi chuyển sang cơ cấu mới là Quân đội Việt Nam Cộng hòa ông được thăng cấp Đại úy làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Thám thính. Tháng 9 cùng năm, ông được cử làm Chỉ huy trưởng đầu tiên Trung đoàn 4 Kỵ binh Thiết giáp, đồn trú tại Huế (Trung đoàn 4 được thành lập ngày 1 tháng 9 năm 1955 tại Đà Nẵng gồm Tiểu đoàn 2 và 10 Thám thính cùng thành phần còn lại của Trung đoàn 3 đã giải tán). Qua đầu năm 1956, được lệnh bàn giao Trung đoàn 4 lại cho Đại úy Huỳnh Ngọc Diệp (khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức). Sau đó, ông được thăng cấp Thiếu tá và được chỉ định chỉ huy Trung đoàn 2 Thiết giáp đồn trú tại Mỹ Tho, thay thế Thiếu tá Trần Thanh Phú.

Đầu năm 1958, được lệnh bàn giao chức Trung đoàn 2 lại cho Đại úy Nguyễn Duy Hinh để về phục vụ tại Bộ chỉ huy Thiết giáp. Tháng giêng năm 1959, ông tái nhiệm chỉ huy Trung đoàn 2 thay lại cho Thiếu Tá Hinh đi du học khoá chỉ huy và tham mưu tại Hoa Kỳ. Qua năm 1960, ông được kiêm nhiệm chức Tỉnh trưởng Định Tường. Đến năm 1962, bàn giao chức Tinh trưởng Định Tường lại cho Trung tá Trần Hoàng Quân. Đầu năm 1963, bàn giao Trung đoàn 2 lại cho Thiếu tá Lý Tòng Bá.

Giữa tháng 9 năm 1964, ông được thăng cấp Trung tá làm Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 5 chiến xa M.24 ở Sài Gòn thay thế Trung tá Dương Hiếu Nghĩa. Tháng 11 cùng năm, ông được chỉ định kiêm nhiệm Chỉ huy trưởng trường Thiết giáp thay thế Trung tá Nguyễn Văn Toàn. Tháng 12 cuối năm, Chỉ huy trưởng cuộc hành quân Hùng Vương 2, tảo thanh vùng Bình Giả thuộc tỉnh Phước Tuy.

Giữa tháng 3 năm 1965 (Chiến đoàn 5 cải danh thành Trung đoàn 5, di chuyển từ Sài Gòn về Long Khánh), ông kiêm nhiệm chức Chỉ huy trưởng Thiết giáp Trung ương được tái lập tại trường Thiết giáp ở Liên trường Võ khoa Thủ Đức (Bộ chỉ huy Thiết giáp tạm thời giải tán vào ngày 15 tháng 11 năm 1964).

Trong cùng một thời điểm, ông được giữ và kiêm nhiệm 3 chức vụ: Chỉ huy Trung đoàn, trường Huấn luyện và Bộ chỉ huy Thiết giáp.

Cũng trong năm 1965, tháng 4 ông nhận lệnh bàn giao chức Chỉ huy trường Thiết giáp lại cho Trung tá Nguyễn Tuấn. Cuối tháng 5 kế đó, ông được thăng cấp Đại tá. Tháng 8 cùng năm, bàn giao Trung đoàn 5 lại cho Trung tá Trần Quang Khôi (nguyên Trung đoàn phó). Đầu tháng 9 kế tiếp, bàn giao chức Chỉ huy trưởng Thiết giáp tại trại Phù Đổng, Gò Vấp lại cho Trung tá Lương Bùi Tùng, để đi nhận chức vụ Chỉ huy trưởng trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt thay thế Chuẩn tướng Nguyễn Văn Kiểm được cử về Trung ương làm Tham mưu trưởng Biệt bộ Tham mưu Phủ Tổng thống.

Tháng 11 năm 1966, ông nhận lệnh bàn giao trường Võ bị Quốc gia lại cho Đại tá Đỗ Ngọc Nhận. Ngay sau đó ông được cử đi làm Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan Đồng Đế thay thế Thiếu tướng Nguyễn Văn Là. Qua đầu năm 1967, bàn giao trường Hạ sĩ quan lại cho Đại tá Phạm Văn Liễu. Tháng 4 cùng năm, ông được chỉ định giữ chức Chỉ huy trưởng Trường Bộ binh Thủ Đức thay thế Thiếu tướng Bùi Hữu Nhơn được cử làm phó Chủ tịch Uỷ ban Điều hành Quốc tế Quân viện.

Trong thời gian Chỉ huy trường Thủ Đức, ông đã tổ chức lễ mãn khóa cho các khóa 23, 24, 25, 26 và 27 sĩ quan trừ bị.

Ngày 19 tháng 6 năm 1968, ông được vinh thăng hàm Chuẩn tướng tại nhiệm. Qua tháng 8 năm 1969, ông nhận lệnh bàn giao trường Bộ binh lại cho Thiếu tướng Phạm Quốc Thuần. Cùng ngày, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 18 bộ binh thay thế Chuẩn tướng Đỗ Kế Giai.

Ngày 20 tháng 8 năm 1970, ông được vinh thăng hàm Thiếu tướng tại nhiệm. Đến tháng 4 năm 1972, nhận lệnh bàn giao Sư đoàn 18 lại cho Đại tá Lê Minh Đảo (nguyên Tỉnh trưởng Định Tường). Sau đó, ông được cử tái nhiệm Chỉ huy trưởng trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt thay thế bào đệ là Trung tướng Lâm Quang Thi được cử đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn I và Quân khu 1.

1975

Ngày 21 tháng 3 năm 1975 di tản khỏi Đà Lạt cùng với toàn thể cơ hữu và khoá sinh của trường Võ bị di chuyển về trường Bộ binh tại Long Thành.

Sau ngày 30 tháng 4, ông và gia đình định cư tại Texas, Hoa kỳ.

Năm 1985, ông từ trần tại San Francisco, California. Hưởng dương 54 tuổi.

Gia đình

  • Phu nhân: Bà Trương Thị Hui. Ông bà có 4 người con gồm 2 trai, 2 gái.

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa. Hương Quê. ISBN 978-0-9852-1820-1.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết) [cần số trang]