Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đại thành tựu”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 583: Dòng 583:
|Ngài vốn là 1 tiều phu nghèo khó và luôn bị ám ảnh bởi sự giàu sang
|Ngài vốn là 1 tiều phu nghèo khó và luôn bị ám ảnh bởi sự giàu sang
|-
|-
|
|64
|'''Babhahi'''
|
|Người lấy sữa từ nước
|
|Thành Dhanjura
|
|Một Yogi
|
|Yoga Chuyển di thần thức , Thiền Đại Thủ ấn
|
|12 năm
|
|Sau khi chuyển xác phàm thành thân ánh sáng ngài đi vào cõi các Dakas
|
|-
|-
|
|65
|
|
|
|
Dòng 601: Dòng 601:
|
|
|-
|-
|
|66
|
|
|
|
Dòng 610: Dòng 610:
|
|
|-
|-
|
|67
|
|
|
|
Dòng 619: Dòng 619:
|
|
|-
|-
|
|68
|
|
|
|
Dòng 628: Dòng 628:
|
|
|-
|-
|
|69
|
|
|
|
Dòng 637: Dòng 637:
|
|
|-
|-
|
|70
|
|
|
|

Phiên bản lúc 06:14, ngày 24 tháng 11 năm 2015

Đại thành tựu (zh. 大成就, sa. mahāsiddha), hoặc là Đại thành tựu giả, cũng dịch âm là Ma-ha-tất-đạt (zh. 摩訶悉達), là danh hiệu chỉ những vị tu khổ hạnh, đã đạt cốt tuỷ của giáo pháp Đát-đặc-la của Phật giáo (Vô thượng du-già) một cách siêu việt. Người ta nhắc đến nhiều nhất 84 vị Đại thành tựu của thế kỉ thứ 8 đến thế kỉ thứ 12 tại Ấn Độ, là những vị tu học khác hẳn truyền thống tu tập ở các Tinh xá (sa., pi. vihāra) của Đại thừa. Đó là những vị nam nữ, thuộc tầng lớp xã hội khác nhau, là những người đã để lại cho Phật giáo Bắc Ấn Độ và Tây Tạng một ảnh hưởng quyết định.

Thành tựu giả (sa. siddha) là các vị đã đạt thần thông, thần thông này được gọi là Thành tựu pháp (sa. siddhi, hoặc Tất-địa). Người xuất gia hay cư sĩ đều có thể đạt Tất-địa.

Trong thời Phật còn tại thế, người ta đã thừa nhận trong quá trình tu tập, hành giả có thể đạt thần thông nhất định, nhưng các thần thông đó đều vô ích, không đáng quan tâm. Chính Phật cũng không cho phép đệ tử mình thi triển thần thông, trừ khi cần phải thi triển vì mục đích giáo hoá. Thế nhưng, Mật tông, nhất là truyền thống Đát-đặc-la có khuynh hướng khuyến khích việc thi triển thần thông, xem nó như một trong những phương tiện thiện xảo để giáo hoá. Vì thế phần lớn các vị Thành tựu hay xiển dương thần thông như bay trên không, đi dưới nước, xuyên qua tường hay kéo dài thọ mệnh. Các vị đạt một ít thần thông nhất định được gọi là Thành tựu, các vị đạt được nhiều thần thông được gọi là Đại thành tựu. Người ta kể ra khoảng 34 thần thông khác nhau. Các vị đạt Tất-địa không nhất thiết là đã đạt giải thoát. Theo sách vở truyền lại thì ít có vị nào được ghi là "nhập Niết-bàn". Phần lớn được gọi là "đi vào cõi của Không hành nữ", được hiểu là nơi không còn tái sinh, tiếp tục tu học để giải thoát hoàn toàn.

Truyện về 84 vị Đại thành tựu do Vô Uý Thí Cát Tường (sa. abhayadatta śrī), một cao tăng Ấn Độ ghi lại trong thế kỉ 11,12 trong một tập dưới tựa Tiểu sử của 84 Đại thành tựu giả (sa. caturraśīti-siddha-pravṛtti, bản dịch của Keith Dowman và H.-W. Schumann). Truyền thống Tây Tạng cũng có những tập nói về chư vị nhưng có khác đôi chút. Trong quyển sách này, sự tích các vị là dựa vào tập của Vô Uý Thí Cát Tường. Đa số 84 vị này đều sống trong khoảng từ thế kỉ thứ 8 đến 12 và truyền thừa cho nhau. Các vị thường có rất nhiều tên khác nhau, phần lớn dựa vào tính chất đắc đạo hay nghề nghiệp các vị đó. Các câu chuyện truyền lại với những thần thông khác nhau có thể được thêm bớt, nhưng người ta cho rằng tất cả các vị đó đều là những nhân vật lịch sử, đã sống thật trên trái đất này.

Ngày nay người ta còn tìm thấy tiểu sử của 84 vị Đại thành tựu trong kinh sách Tây Tạng như Chatraba (sa. catrapa), người hành khất; Kantalipa (sa. kantalipa), thợ may và Kumbaripa (sa. kumbharipa), thợ gốm. Người ta cũng phải kể các vị như nhà vua Indrabhuti (sa. indrabhūti) và người em gái Lakshminkara (sa. lakṣmīṅkarā) cũng như Luận sư Shantipa (sa. śāntipa). Đời sống các vị đó khác nhau rất nhiều nhưng tất cả đều có chung một điều là các vị đều phải trải qua một cơn khủng hoảng trong đời, gặp một lời khai thị của một vị Đạo sư và biến khủng hoảng đó thành đạo giải thoát. Các vị thường có thái độ khó hiểu và ưa dùng nghịch lí để diễn tả cái không thể lĩnh hội được của sự thật vô thượng. Trong tiểu sử của vị Đại thành tựu Tantepa (sa. tantepa), người ta thấy sự hoà nhập giữa một cuộc đời tối tăm nhất và sự giác ngộ cao cả. Ông là người đánh bạc, phá tan gia sản và chỉ nhờ câu khai thị—thế giới thật ra cũng trống rỗng như túi tiền của mình—ông đạt giác ngộ và trực chứng Niết-bàn.

Các bài kệ ca tụng Chân như, trong đây được tạm dịch là Chứng đạo ca (sa. dohā, phiên âm Hán-Việt là Đạo-bả, 道把) của các vị Đại thành tựu thường rất thi vị và kích thích sức tưởng tượng. Tại Tây Tạng, truyền thống ca hát đó được Mật-lặc Nhật-ba và Drugpa Kunleg tiếp nối. Bài ca sau đây của người thợ rèn Saraha, một trong những vị Đại thành tựu danh tiếng nhất, để lại ấn tượng khó quên: "Ai thấu hiểu rằng, đầu đuôi chẳng có tâm thức nào cả, người đó đã thực hiện tâm Phật ba đời."

Danh Sách Các Đại Thành Tựu Giả

Stt Tên Danh Hiệu Địa Phương Thượng Sư Pháp Môn hành trì thời gian tu tập Ghi Chú
1 Sharaha Đại Bà La Môn Roli miền Đông Ấn Độ Được một nhà sư mật truyền tâm pháp
2 Nagajuna - Long Thọ Nhà Hiền triết , luyện kim Kanchi chân Ngôn Tara , ngũ minh môn thời trẻ là người gàn dở , hay cưỡng đoạt tài sản của người khác
3 Vyalipa Nhà luyện kim Long Thọ vốn là 1 bà la môn giàu có nuôi ước mơ trường sinh bất tử
4 Samudra Thợ Mò ngọc trai Đại sư Acintapa 3 năm
5 Lkashimikara Công chúa giả điên Shabhala em gái vua Indrabhuti
6 Mekhala và Kanakhala 2 chị em nâng thủ cấp Devikota Đại Sư Krsnacarya Kim Cương Tâm Pháp 12 năm
7 Kumbharipa Người thợ gốm Jomanasri một nhà sư Du già 6 tháng
8 Manibhadra Bà nội chợ hạnh phúc thị trấn Agaru Đại sư Kukkuripa định tâm vào một điểm duy nhất 12 năm
9 Udhilipa Người bay Đại sư Kanaripa tụng chân ngôn Kim cương thánh nữ 10.000 lần tại 24 thánh địa
10 Celuka Kẻ ăn không ngồi rồi lấy lại sức sống Mangalapur Yogi Maitripa tantra Chakrasamvara 9 năm
11 Kilakipana Người rộng mồm Bhiralipa
12 Kantali Người khâu vải vụn Thánh nữ Dakini Tứ vô lượng tâm : Từ Bi Hỷ Xả
13 Dhahuli Người bện dây thừng Dhokara một Du già sư 12 năm
14 Medhini Người nông dân thành Hoa Thị 12 năm
15 Dhokaripa Người mang bình Thành Hoa Thị du già sư 3 năm vốn là người hành khất
16 Yogipa Người Hành hương Chân sư Savanpa hành hương tới 24 thánh địa , vừa đi vừa tụng chân ngôn Kim Cương Tát Đỏa 12 năm vốn là 1 người kém trí tuệ , sau khi đắc đạo thọ 500 năm
17 Ghandhapa Người rung chuông Sri Kim cương thánh nữ Chakrasamvara vốn là tu sĩ đại học viện Nalanda
18 Pankaja Bà la môn sinh từ hoa sen Long Thọ
19 Dharmapa Thư sinh chăm chỉ 1 du già sư
20 Kucipa Người bướu cổ Kahari Long Thọ Guhyasamaja
21 Dharmapa Học giả uyên bác Kim cương thánh nữ 6 năm
22 Rahula Ông già lẩm cẩm Kamarupa 1 du già sư quán chữ Ah trên đỉnh đầu ...
23 Jalandhari Người được chọn Kim cương thánh nữ 7 năm
24 Tinkapa Yogi màn đen mẹ là 1 kim cương thánh nữ
25 Kukkuripa Người quý chó
26 Tandhepa Người đánh bạc 20 năm
27 Bhandhepa Vị thần cầu pháp Sravarti Krsnacarya
28 Krsnacarya( Kanhapa ) Đại thành tựu giả Jalandhara Bản tôn Hevajra vốn là con trai một vị quan văn
29 Dombipa Người cưỡi hổ nước Ma Kiệt Đà Đạo sư Virupa du già mật pháp 12 năm vua Ma Kiệt Đà
30 Kankana Nhà Vua Tu sĩ Visnunarga một nhà sư du già chú tâm vào mặt 1 viên ngọc 6 tháng
31 Dhobipa Người thợ gặt nước Pataliputra một nhà sư du già 12 năm
32 Aryadeva ( thanh tịnh thánh nhân ) Đại sư độc nhãn Long Thọ ngài sinh ra từ 1 đóa sen
33 Santipa Học giả xứ Magadha 12 năm
34 Vinapa Nhạc sĩ xứ Gauda Đạo sư Buddhapa chú tâm vào tiếng đàn 9 năm ngài là hoàng tử xứ Gauda
35 Khadgapa Bậc thầy ăn trộm Du già sư Carpati 21 ngài cầu nguyện trước pho tượng Quan Thế Âm , sau đó dùng gươm chém con rắn chui ra từ đó 21 ngày ngài vốn là 1 tướng cướp
36 Camaripa Thợ sửa giày Visnunarga Một nhà sư du già 12 năm
37 Tantipa Người thợ dệt Sendhonarga Sư Jalandra 12 năm
38 Putalipa Bangala Một nhà sư du già bản tôn Hevajra 12 năm
39 Dharikapa Vua nô lệ Đạo sư Luipa 12 năm
40 Courangipa Người không chân tay Đạo sư Yoga Acinta Nội hỏa 12 năm Ngài vốn là 1 hoàng tử
41 Goraksa Người chăn bò Đại sư Minapa
42 Nigunapa Một vi Yogi
43 Kirava Người chinh phục Một nhà sư du già Bồ tát giới , tứ vô lượng tâm , thiền định Ngài vốn là một vị vua
44 Kapalapa Người mang bình bát sọ Xứ Rajapuri Chân sư Krsnacarya Bản Tôn Hevajra , quán tưởng bình bát và hư không là một 9 năm
45 Nagabhodhi Nhà Luyện Kim
46 Sarvabhaksa Kẻ háu ăn Vương quốc Abhira Đại sư Saraha
47 Sakara Người sinh từ hoa sen Vương quốc Kanci Bồ tát Quan Thế Âm Bản Tôn Hevajra 12 năm
48 Pacari Người bán bánh Thành Campa Bồ tát Quan Thế Âm Lục tự đại minh chân ngôn
49 Godhuri Người bẫy chim Xứ Disunagar Một nhà sư du già Quán tất cả âm thanh trong thế gian và tiếng chim hót giống nhau 9 năm Ngài thọ 100 năm hóa độ trên 300 đệ tử
50 Jayananda Điểu sư - người dạy chim Xứ Belgan Pháp " Bi điền " , gia trì chân ngôn vào thức ăn rồi tung lên không trung để cúng dường
51 Lucika Người đào tẩu Một vị tăng 12 năm
52 Kotali Người bán rong Chân sư Santipa 12 năm
53 Campaka Ông vua thích hoa Vương quốc Campa Một nhà sư khất thực 12 năm Ngài là 1 vị vua
54 Bhiksana Hành giả hai răng Vùng Pataliputra Một vị Dakini 7 năm
55 Dhilipa Người bán dầu Satapuri Đạo sư Bhahana 9 năm
56 Kampari ( 2 vợ chồng ) Người Thợ rèn Một nhà sư Yoga Thiền Nội Hỏa
57 Ananga Đẹp trai ngu ngốc Gahura Một Yogi Bản tôn Chakrasamvara 6 tháng Sau cùng ngài đi vào cảnh giới các Dakas
58 Mekopa Người có ánh mắt dữ tợn Một nhà sư du già 6 tháng Ngài làm nghề bán cơm
59 Santideva ( Tịch Thiên Tôn giả ) Thầy Tu lười biếng
60 Nalinapa Người hái hoa sen Saliputra Một Yogi Guhyasamaja 9 năm Ngài thọ 400 năm , hóa độ 550 đệ tử , sau đó đi vào cõi Dakas
61 Mahipa Người vĩ đại Xứ Ma - Kiệt - Đà Một Yogi
62 Thagana Người nói dối Một nhà sư 7 năm
63 Acinta ản sĩ Đại sư Kampala Ngài vốn là 1 tiều phu nghèo khó và luôn bị ám ảnh bởi sự giàu sang
64 Babhahi Người lấy sữa từ nước Thành Dhanjura Một Yogi Yoga Chuyển di thần thức , Thiền Đại Thủ ấn 12 năm Sau khi chuyển xác phàm thành thân ánh sáng ngài đi vào cõi các Dakas
65
66
67
68
69
70

Tham khảo

  • Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ Điển. Phật Quang Đại Từ Điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Bảng các chữ viết tắt
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên |
pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán