Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lý Tòng Bá”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 5: Dòng 5:
| nơi sinh= Long Xuyên
| nơi sinh= Long Xuyên
| nơi mất= Hoa Kỳ
| nơi mất= Hoa Kỳ
| hình= [[Tập|170px]]
| hình=
| thuộc= [[Tập tin:Flag of the South Vietnamese Army.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]<br> [[Tập tin:Flag of South Vietnam.svg|22px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]]
| thuộc= [[Tập tin:Flag of the South Vietnamese Army.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]<br> [[Tập tin:Flag of South Vietnam.svg|22px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]]
| năm phục vụ= 1951-1975
| năm phục vụ= 1951-1975
Dòng 79: Dòng 79:
*[http://www.lasvegassun.com/sunbin/stories/lv-other/2005/nov/10/519641050.html Người đồng chí trong một cuộc chiến bỏ lỡ] (tiếng Anh)
*[http://www.lasvegassun.com/sunbin/stories/lv-other/2005/nov/10/519641050.html Người đồng chí trong một cuộc chiến bỏ lỡ] (tiếng Anh)


{{thời gian sống|1931|2015}}
[[Thể loại:Sinh: 1931]]

[[Thể loại:Mất: 2015]]
[[Thể loại:Chuẩn tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Người Long Xuyên]]
[[Thể loại:Người Long Xuyên]]
[[Thể loại:Tù binh Chiến tranh]]
[[Thể loại:Chuẩn tướng Việt Nam Cộng hoà]]
[[Thể loại:Sinh 1931]]
[[Thể loại:Mất 2015]]
[[Thể loại:Tù binh Chiến tranh Việt Nam]]
[[Thể loại:Người Việt di cư tới Mỹ]]

Phiên bản lúc 23:33, ngày 29 tháng 11 năm 2015

Lý Tòng Bá
Sinh14-11-1931
Long Xuyên
Mất22-2-2015
Hoa Kỳ
Thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Năm tại ngũ1951-1975
Quân hàm Chuẩn tướng
Đơn vịBinh chủng Thiết giáp
Sư đoàn 25 Bộ binh
Chỉ huyQuân đội Quốc gia Việt Nam
Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Tham chiếnChiến tranh Việt Nam

Lý Tòng Bá (1931-2015), nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh-Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang quân hàm Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khoá đầu ở trường Võ bị Quốc gia do Quân đội Quốc gia Việt Nam trong Quân đội Liên hiệp Pháp mở ra tại nam Cao nguyên Trung phần. Sau khi tốt nghiệp ông được chọn vào đơn vị Thiết giáp và ông đã phục vụ ở binh chủng này hầu hết thời gian tại ngũ. Xen vào đó, ông đã từng làm Tiểu khu trưởng, sau cùng là Tư lệnh Sư đoàn bộ binh.

Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh ngày 14-11-1931 trong một gia đình khá giả tại làng Bình Đức, tỉnh Long Xuyên, miền tây Nam phần Việt Nam, thuộc quê ngoại. Quê nội của ông thuộc quận Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Từ năm 1937 đến năm 1947, ông là học sinh trường Tiểu học Long Xuyên, rồi trường Trung học Collège de Cantho chương trình Pháp (sau cải danh thành trường Trung học Phan Thanh Giản). Ông tốt nghiệp với văn bằng Thành chung.

Sau khi được cấp bằng Thành chung, ông được trúng tuyển theo học trường Thiếu sinh quân Đông Dương ở Cap Saint Jacques, Vũng Tàu chương trình Trung học Đệ nhị cấp từ năm 1948 đến năm 1950. Ông tốt nghiệp với văn bằng Tú tài phần 1.

Năm 1951: Ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân Đội Quốc Gia, mang số quân: 51/121.307. Theo học khoá 6 Đinh Bộ Lĩnh trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (khai giảng ngày 1/12/1951, mãn khóa ngày 1/10/1952). Ông tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy. Ngay sau khi ra trường, ông được tuyển chọn vào binh chủng Thiết giáp và theo học tiếp khóa căn bản binh chủng tại Trung tâm Huấn luyện Thiết giáp Viễn đông của Quân đội Pháp ở Cap Saint Jacques kể từ ngày 1/10/1952 đến ngày 1/4/1953.

  • Cùng theo học khóa này còn có các tân Thiếu úy, sau này lên tướng và giữ chức vụ cuối cùng như sau:
  1. Trung tướng Hoàng Xuân Lãm (Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng)
  2. Trung tướng Nguyễn Văn Toàn (Tư lệnh Quân đoàn III)
  3. Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp (Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi)
  4. Chuẩn tướng Trần Quang Khôi (Tư lệnh Lữ đoàn 3 Kỵ binh)

Tháng 4 năm 1953: Ra trường, được cử giữ chức Trung đội trưởng Trung đội Thám thính M.8 thuộc Tiểu đoàn 7 Thám thính ở Hà Đông, Bắc Việt. Qua đầu năm 1954, ông được chọn làm sĩ quan Tuỳ viên cho Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia. Cuối năm này ông được thăng cấp Trung úy tại nhiệm.

Quân đội Việt Nam Cộng hoà

Đầu năm 1955, ông được điều động trở về binh chủng và được cử làm Đại đội trưởng Đại đội Thám thính. Sau khi Quân đội Quốc gia được cải danh thành Quân đội Việt Nam Cộng hoà, tháng 10 năm này ông được chọn đi du học khóa cao cấp Thiết giáp tại trường Kỵ binh Saumur ở Pháp, qua đầu tháng giêng năm 1956 mãn khóa.

  • Cùng du học khóa cao cấp Thiết giáp còn có các sĩ quan sau đây:
  1. Đại úy Nguyễn Duy Hinh
  2. Đại úy Lê Đức Đạt
  3. Trung uý Phan Hòa Hiệp
  4. Trung úy Trần Quang Khôi

Ngay sau khi trở về nước, Ông được cử làm Chi đoàn trưởng Chi đoàn chiến xa M.8 (sau đổi thành Chi đoàn chiến xa M.24) thuộc Trung đoàn 1 Thiết giáp ở Gò Vấp, Gia Định do Thiếu tá Hoàng Xuân Lãm làm Trung đoàn trưởng. Qua năm 1958, ông được thăng cấp Đại úy tại nhiệm và nhận lệnh bàn giao Chi đoàn M.24 lại cho Đại úy Kha Vãng Huy, để đi du học khóa căn bản và cơ khí Thiết giáp tại trường Lục quân Fort Knox, Kentucky, Hoa Kỳ. Tháng 5 năm 1959, mãn khoá học ông về nước phục vụ tại ban Tu thư, sau đó được giao chức vụ sĩ quan phụ tá Tiếp vận của Bộ chỉ huy Thiết giáp tại trại Trần Hưng Đạo, Bộ Tổng tham mưu.

Năm 1960: Ông được cử giữ chức Chỉ huy phó trường Huấn luyện Thiết giáp ở Thủ Đức, do Thiếu tá Vĩnh Lộc làm Chỉ huy trưởng. Giữa năm, ông được biệt phái sang lĩnh vực hành chính đi làm phó Tỉnh trưởng Nội an kiêm Tiểu khu trưởng Phước Long. Cuối năm, Thiếu tá Đỗ Văn Diễn Tỉnh trưởng Phước Long trả ông trở lại Quân đội vì bị nghi ngờ ủng hộ cuộc đảo chánh ngày 11/11/1960 do Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu. Sau đó ông được điều đi làm Chỉ huy phó Trung tâm Huấn luyện Cơ giới Bảo an ở Vũng Tàu do Thiếu tá Lê Đức Đạt làm Chỉ huy trưởng. Qua năm 1961, ông được cử làm Đại đội trưởng Đại đội 7 Cơ giới M113 tân lập thuộc Sư đoàn 7 bộ binh ở Mỹ Tho (năm 1962, đơn vị này được cải danh thành Chi đoàn 4 Thiết vận xa thuộc Trung đoàn 2 Thiết giáp đặt binh sở tại Mỹ Tho). Cuối năm này, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 Thiết giáp thay thế Trung tá Lâm Quang Thơ.

Đầu tháng 12 năm 1963, một tháng sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông được cử làm Chỉ huy Chiến đoàn 6 Thiết vận xa tân lập tại Mỹ Tho. Qua năm 1964, ông được thăng Trung tá tại nhiệm.

Qua trung tuần tháng 8 năm 1964, ông được thăng cấp Trung tá. Tháng 9 kế đó ông tham gia cuộc biểu dương Lực lượng (thực ra là một vụ đảo chính) xuất phát từ Quân khu 4 do Trung tướng Dương Văn Đức Tư lệnh Quân đoàn IV cầm đầu. Đảo chính thất bại, ông bị bắt và giam giữ tại Quân lao Gò Vấp, sau đó chuyển sang khám Chí Hòa. Tháng 10 cùng năm ông bị ra Toà án binh và Hội đồng kỷ luật Quân đội nhưng được tha bổng và phục hồi cấp bậc, sau đó ông được cử làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 Thiết giáp thay thế Thiếu tá Huỳnh Ngọc Diệp (còn gọi là Diệp B, vì trong binh chủng Thiết giáp có 2 sĩ quan cùng cấp đều mang họ và tên giống nhau). Qua tháng 10 năm 1965, ông nhận lệnh bàn giao Trung đoàn 1 Thiết giáp lại cho Trung Tá Huỳnh Ngọc Diệp A để đi nhận chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Bình Dương. Ngày 1/11 năm này, ông được đặc cách thăng cấp Đại tá.

Tháng 4 năm 1968, Rời tỉnh Bình Dương, ông được điều về Trung ương giữ chức Chánh sở Thanh tra Tổng nha Thanh tra Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Qua năm 1971, ông được cử đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn II Đặc trách Chương trình Bình định & Phát triển của Quân khu 2 tại Nha Trang.

Hạ tuần tháng giêng năm 1972, Ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh thay thế Chuẩn Tướng Võ Văn Cảnh đi làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Lam Sơn. Tháng 5 cùng năm, ông được đặc cách tại mặt trận vinh thăng cấp Chuẩn Tướng tại nhiệm do chiến tích của Sư đoàn 23 đã lập được tại chiến trường Kontum trong "Mùa hè Đỏ lửa". Tháng 10 năm này, ông được lệnh bàn giao chức Sư đoàn 23 lại cho Đại Tá Trần Văn Cẩm (nguyên Tham mưu trưởng Quân đoàn II). Cùng ngày đi nhận chức Chỉ huy trưởng Thiết giáp Trung ương tại Trại Phù Đổng, Gò Vấp thay thế Đại tá Phan Hòa Hiệp. Qua năm 1973, ông được cử làm sĩ quan Tuỳ viên cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu công du thăm viếng các Quốc gia Hoa Kỳ, Ý, Anh, Trung Hoa Quốc Gia và Đại Hàn trong vòng thời gian 2 tuần lễ.

Ngày 01/11/1974, Nhận lệnh bàn giao Bộ chỉ huy Thiết giáp lại cho Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, sau đó đi đảm nhận chức Tư lệnh Sư đoàn 25 bộ binh (bản doanh đặt tại Căn cứ Đồng Dù, Củ Chi, Hậu Nghĩa), thay thế Đại tá Nguyễn Hữu Toán đi làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Lam Sơn.

Ra hàng và xuất cảnh

Có nguồn dư luận cho rằng, ngày 30/04/1975, viên Chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn "tia chớp nhiệt đới" (biệt danh của Sư đoàn 25 Bộ binh Việt Nam Cộng hòa) đã cải trang thành một nhà thầu dân sự xây dựng doanh trại để lẩn ra đường cái bắt xe khách trốn về Sài Gòn. Dù vậy, ông ta vẫn bị một nữ du kích Củ Chi bắt sống khi đang nép người dưới ruộng lúa.

Sự thật thì bà Lê Thị Sương (nguyên Chính trị viên của Đội nữ du kích Củ Chi). Bà thường được gọi là "dì Năm Sương" hoặc "dì Năm du kích". Bà Sương sống trong một ngôi nhà cấp bốn nằm phía sau ngôi chợ nhỏ có tên gọi là chợ Lô Sáu (xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh) kể lại: "Chúng ta chiến thắng bằng sức mạnh chính nghĩa, vì vậy ta phải ghi nhận lịch sử đúng và chính xác. Đúng là Lý Tòng Bá đã tháo chạy khỏi căn cứ trước áp lực quân sự của ta nhưng đích thân ông ta dẫn các sĩ quan thuộc quyền ra trình diện chứ không phải bị tôi bắt lúc lẩn trốn. Khi ra trình diện, ông ta vẫn mặc bộ quân phục nhưng đã tháo bỏ quân hàm. Khi tôi bàn giao ông ta cho bộ đội, ông ta vẫn mặc bộ đồ đó".

Sáng sớm ngày 29/04/1975, lực lượng Trung đoàn 48 của ta đánh vào sở chỉ huy của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá. Lý Tòng Bá lệnh cho thuộc hạ phản công quyết liệt. Tuy nhiên, đến trưa, không chịu nổi sức mạnh áp đảo của quân ta, Lý Tòng Bá cùng thuộc hạ bỏ chạy khỏi sở chỉ huy. Chiều cùng ngày, bà Năm Sương cùng đồng đội đã vào đến trung tâm huyện lị Củ Chi tiếp quản trụ sở hành chính của địch. Theo sự chỉ đạo từ trước, bà Năm Sương dùng xe Jeep tịch thu của địch đi phát loa kêu gọi ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện chính quyền cách mạng tại Rạp hát Củ Chi (nay là trụ sở Công an huyện Củ Chi).

Khoảng 9 giờ sáng ngày 30/4/1975, hàng trăm binh sỹ Việt Nam Cộng hòa vào rạp hát trình diện. Chiều cùng ngày, bà Năm Sương trưng dụng xe quân sự vừa tịch thu của địch chở hết số sĩ quan chỉ huy Sư đoàn 25 ngụy vào căn cứ Đồng Dù bàn giao cho Cục Chính trị Sư đoàn 320 của ta.[1]

Ông đi cải tạo tại các trại:

  1. Trại Quang Trung (tháng 5-1975).
  2. Trại Yên Bái, Hoàng Liên Sơn (tháng 6-1976).
  3. Trại Hà Tây (tháng 4-1978).
  4. Trại Nam Hà, Hà nam Ninh (tháng 3-1982), cho đến tháng 3-1988 được trả tự do.

Năm 1990: Ông được phép xuất cảnh theo Chương trình Ra đi có Trật tự diện HO do Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh. Đến phi trường Los Angeles ngày 27/01. Sau đó sum họp với gia đình tại Las Vegas, Nevada, Hoa Kỳ.

Ngày 22/02/2015, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 84 tuổi.

Gia đình

  • Phu nhân: Bà Chung Bạch Vân (Ông bà sinh hạ 3 người con gồm 2 trai, 1 gái)

Tham khảo

  1. ^ “Chuyện nữ du kích bắt sống Chuẩn tướng Lý Tòng Bá”.
  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011), Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Liên kết ngoài