Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thi Hội”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n replaced: <references /> → {{tham khảo}}, {{tham khảo}} → {{tham khảo|2}}
Dòng 6: Dòng 6:


==Việt Nam==
==Việt Nam==
===Thể lệ===
Từ đời [[Lê Thánh Tông]] thi Hương được tổ chức vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu và thi Hội vào năm sau Sửu, Mùi, Thìn, Tuất (dựa theo quy định thi cử của [[Trung Quốc]]). Sau khi thí sinh đỗ kỳ [[thi Hương]] thì năm sau mới được dự thi kỳ thi Hội. Thi đỗ khóa thi Hội rồi mới được phép dự [[thi Đình]]. Những người đỗ thi Đình được bổ dụng quan chức trong triều đình.
Từ đời [[Lê Thánh Tông]] thi Hương được tổ chức vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu và thi Hội vào năm sau Sửu, Mùi, Thìn, Tuất (dựa theo quy định thi cử của [[Trung Quốc]]). Sau khi thí sinh đỗ kỳ [[thi Hương]] thì năm sau mới được dự thi kỳ thi Hội. Thi đỗ khóa thi Hội rồi mới được phép dự [[thi Đình]]. Những người đỗ thi Đình được bổ dụng quan chức trong triều đình.


Dòng 19: Dòng 20:


Vào thời [[nhà Nguyễn]] những thí sinh thiếu điểm để đỗ tiến sĩ có thể được cứu xét và cho học vị [[Phó Bảng]] (ông Phó Bảng).
Vào thời [[nhà Nguyễn]] những thí sinh thiếu điểm để đỗ tiến sĩ có thể được cứu xét và cho học vị [[Phó Bảng]] (ông Phó Bảng).

===Nội dung===
Dưới thời [[Pháp thuộc]] [[Liên bang Đông Dương|chính quyền Bảo hộ]] xúc tiến tìm cách cải tổ lề lối khoa cử. Thi Hội vào [[thập niên 1910]] như khoa Quý Sửu năm 1913 thì thi Hội có bốn phần, gọi là trường nhất, trường nhì, trường ba và trường tư.<ref name="Hà"/>

#Trường nhất thí sinh phải làm một bài [[văn sách]]
#Trường nhì là một bài luận bằng [[Hán văn]]
#Trường ba là một bài luận bằng [[Quốc ngữ]]
#Trường tư có ba thành phần: một bài chiếu, một bài chế và một bài biểu. Chiếu là mệnh lệnh của vua. Chế là pháp luật vua ban; và biểu là lời tâu của quan dưới báo lên vua.<ref name="Hà"/>

Thí sin phải đủ điểm đỗ trường nhất và trường nhì, tức có tên yết trên bảng thì mới vào thi trường ba và trường tư.<ref name="Hà">Hà Ngại. ''Tiếng tiêu đồng, hồi ký một vị quan triều Nguyễn''. TP HCM: NXB Trẻ, 2014. Tr 135-41.</ref>


==Trung Quốc==
==Trung Quốc==

Phiên bản lúc 01:00, ngày 2 tháng 4 năm 2016

Tập tin:Examen-1897.jpg
Chòi canh, trường Nam Định, khoa Đinh Dậu 1897
Lễ Xướng danh khoa Đinh Dậu (1897) trường Hà Nam.
Hình chụp người xem bảng danh sách những người thi đỗ

Thi Hội là một khóa thi cử về Nho học do bộ Lễ của triều đình phong kiến tổ chức 3 năm một lần tại các trường trung ương để tuyển chọn người có tài, học rộng.

Việt Nam

Thể lệ

Từ đời Lê Thánh Tông thi Hương được tổ chức vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu và thi Hội vào năm sau Sửu, Mùi, Thìn, Tuất (dựa theo quy định thi cử của Trung Quốc). Sau khi thí sinh đỗ kỳ thi Hương thì năm sau mới được dự thi kỳ thi Hội. Thi đỗ khóa thi Hội rồi mới được phép dự thi Đình. Những người đỗ thi Đình được bổ dụng quan chức trong triều đình.

Theo quy định từ năm 1434, thi Hội tương tự như thi Hương cũng có 4 kỳ.

  • Kỳ I: kinh nghĩa, thư nghĩa;
  • Kỳ II: chiếu, chế, biểu;
  • Kỳ III: thơ phú;
  • Kỳ IV: văn sách.

Khoa thi này được gọi là "Hội thi cử nhân" hoặc "Hội thi cống sĩ" (các cử nhân, cống sĩ, tức là người đã đỗ thi Hương ở các địa phương, tụ hội lại ở kinh đô để thi) do đó gọi là thi Hội.

Trước năm 1442 thí sinh đỗ cả 4 kỳ được công nhận là trúng cách thi Hội, nhưng không có học vị gì. Nếu không tiếp tục thi Đình thì vẫn chỉ có học vị hương cống hoặc cử nhân. Chỉ sau khi thi Đình, người trúng cách thi Hội mới được xếp loại đỗ và mới được công nhận là có học vị các loại tiến sĩ. Từ năm 1442 thí sinh đỗ thi Hội mới có học vị Tiến sĩ (tức Thái học sinh - tên dân gian là ông Nghè). Người đỗ đầu gọi là Hội Nguyên.

Vào thời nhà Nguyễn những thí sinh thiếu điểm để đỗ tiến sĩ có thể được cứu xét và cho học vị Phó Bảng (ông Phó Bảng).

Nội dung

Dưới thời Pháp thuộc chính quyền Bảo hộ xúc tiến tìm cách cải tổ lề lối khoa cử. Thi Hội vào thập niên 1910 như khoa Quý Sửu năm 1913 thì thi Hội có bốn phần, gọi là trường nhất, trường nhì, trường ba và trường tư.[1]

  1. Trường nhất thí sinh phải làm một bài văn sách
  2. Trường nhì là một bài luận bằng Hán văn
  3. Trường ba là một bài luận bằng Quốc ngữ
  4. Trường tư có ba thành phần: một bài chiếu, một bài chế và một bài biểu. Chiếu là mệnh lệnh của vua. Chế là pháp luật vua ban; và biểu là lời tâu của quan dưới báo lên vua.[1]

Thí sin phải đủ điểm đỗ trường nhất và trường nhì, tức có tên yết trên bảng thì mới vào thi trường ba và trường tư.[1]

Trung Quốc

Thi Hội ở Trung Quốc cũng tương tự. Kỳ thi Hội diễn ra vào mùa xuân năm kế tiếp của kỳ thi Hương, tức các năm Sửu, Thìn, Mùi, Tuất, do bộ Lễ tiến hành, nên còn gọi là "lễ vi", "xuân vi". Kỳ thi này cũng diễn ra qua 3 lần (tam trường), mỗi lần 3 ngày. Người đỗ đầu cũng gọi là hội nguyên.

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ a b c Hà Ngại. Tiếng tiêu đồng, hồi ký một vị quan triều Nguyễn. TP HCM: NXB Trẻ, 2014. Tr 135-41.
Khoa bảng
Thi Hương Thi Hội Thi Đình
Giải nguyên Hội nguyên Đình nguyên
Hương cống
Sinh đồ
Thái học sinh
Phó bảng
Trạng nguyên
Bảng nhãn
Thám hoa
Hoàng giáp
Đồng tiến sĩ xuất thân