Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phạm Đăng Lân”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 6: Dòng 6:
| nơi mất=
| nơi mất=
| hình=
| hình=
| thuộc= [[Tập tin:GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| thuộc= [[Hình: GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| năm phục vụ= 1947-1967
| năm phục vụ= 1947-1967
| cấp bậc= [[Tập tin:US-O7 insignia.svg|12px]] [[Chuẩn tướng]]
| cấp bậc= [[Hình: US-O7 insignia.svg|12px]] [[Chuẩn tướng]]
| đơn vị= Công binh VNCH
| đơn vị= Cục Công binh Việt Nam Cộng hòa
| chỉ huy= Quân đội Liên hiệp Pháp<br>Quân đội Quốc gia Việt Nam<br>Quân lực Việt Nam Cộng hòa
| chỉ huy= Quân đội Liên hiệp Pháp<br/>Quân đội Quốc gia Việt Nam<br/>Quân lực Việt Nam Cộng hòa
}}
}}

'''Phạm Đăng Lân''' (1927), nguyên là một tướng lĩnh ngành Công binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], mang quân hàm [[Chuẩn tướng]]. Ông xuất thân từ khoá 2 trường Võ bị Viễn Đông do Chính quyền thuộc địa Pháp mở ra tại một tỉnh thuộc duyên hải miền đông Nam phần với mục đích đào tạo sĩ quan người Việt phục vụ cho Quân đội Liên hiệp Pháp. Trong thời gian tại ngũ, ông chỉ phục vụ trong ngành chuyên môn của mình.
'''Phạm Đăng Lân''' (1927), nguyên là một tướng lĩnh ngành Công binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], cấp bậc [[Chuẩn tướng]]. Ông xuất thân từ khóa 2 trường Võ bị Viễn Đông do Chính quyền thuộc địa Pháp mở ra tại một tỉnh thuộc duyên hải miền đông Nam phần với mục đích đào tạo sĩ quan người Việt phục vụ cho Quân đội Liên hiệp Pháp. Trong thời gian tại ngũ, ông chỉ phục vụ trong ngành chuyên môn của mình.

==Tiểu sử & Binh nghiệp==
==Tiểu sử & Binh nghiệp==
Ông sinh vào tháng 3 năm 1927 tại Sài Gòn trong một gia đình thương nhân. Tốt nghiệp trung học chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
Ông sinh vào tháng 3 năm 1927 tại Sài Gòn trong một gia đình thương nhân. Tốt nghiệp trung học phổ thông chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).


Mùa thu năm 1947, ông nhập ngũ vào '''Quân đội Liên hiệp Pháp''', mang số quân: 47/101.388. Theo học khoá Đỗ Hữu Vị [[*]] trường sĩ quan Nước Ngọt Vũng Tàu ''(khai giảng tháng 8 năm 1947, mãn khóa tháng 6 năm 1948)''. Tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]] hiện dịch. Ra trường, ông được chọn ngành Công binh với chức vụ Trung đội trưởng của Đại đội 2 Công binh chiến đấu thuộc Đệ nhị Quân khu.
Mùa thu năm 1947, ông nhập ngũ vào '''Quân đội Liên hiệp Pháp''', mang số quân: 47/101.388. Theo học khóa Đỗ Hữu Vị [[*]] Trường sĩ quan Nước Ngọt Vũng Tàu, khai giảng vào tháng 8 năm 1947. Tháng 6 năm 1948, tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]] hiện dịch. Ra trường, ông được tuyển chọn vào ngành Công binh với chức vụ Trung đội trưởng của Đại đội 2 Công binh chiến đấu thuộc Đệ nhị Quân khu.
* [[*]] ''(Khoá [[Đỗ Hữu Vị]] còn gọi là khoá 2 của trường Võ bị Liên quân Viễn Đông, khoá 1 được mở và đào tạo sĩ quan ở Đà Lạt, sau đó dời về Vũng Tàu đổi tên thành trường sĩ quan Nước Ngọt).
* [[*]] ''(Khoá [[Đỗ Hữu Vị]] còn gọi là khoá 2 của trường Võ bị Liên quân Viễn Đông, khoá 1 được mở và đào tạo sĩ quan ở Đà Lạt, sau đó dời về Vũng Tàu đổi tên thành trường sĩ quan Nước Ngọt).

===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Năm 1950, chuyển sang phục vụ cho [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]] được thăng cấp [[Trung úy]] tại nhiệm, sau đó được cử làm Đại đội trưởng Đại đội 2 Công binh chiến đấu. Đầu năm 1953, ông được thăng cấp [[Đại úy]] tại nhiệm và được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Công binh chiến đấu.
Năm 1950, chuyển sang phục vụ cho [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]] ông được thăng cấp [[Trung úy]] tại nhiệm, sau đó được cử làm Đại đội trưởng Đại đội 2 Công binh chiến đấu. Đầu năm 1953, ông được thăng cấp [[Đại úy]] và được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Công binh chiến đấu.

===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===
===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===
Năm 1955, Quân đội Quốc gia được cải danh thành [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]], cuối tháng 3 cùng năm ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] và được cử vào chức vụ Chỉ huy trưởng trường Công binh. Tháng 12 cuối năm, ông được lên cấp [[Trung tá]] tại nhiệm.
Cuối tháng 3 năm 1955, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] và được cử vào chức vụ Chỉ huy trưởng Trường Công binh. Cuối tháng 10 cùng năm, nền Đệ nhất Cộng hòa ra đời, đồng thời Quân đội Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa Tháng 12 cuối năm, ông được thăng cấp [[Trung tá]] tại nhiệm.


Giữa năm 1957, ông được giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên đoàn 4 Công binh kiêm Chỉ huy phó Bộ chỉ huy Công binh. Đến cuối năm 1962 Ông được chỉ định vào chức vụ quyền Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Công binh.
Giữa năm 1957, ông được giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên đoàn 4 Công binh kiêm Chỉ huy phó Bộ chỉ huy Công binh. Đến cuối năm 1962 Ông được chỉ định vào chức vụ quyền Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Công binh.


Năm 1963, sau cuộc đảo chính Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]] (ngày 1 tháng 11), ông được thăng cấp [[Đại tá]] tại nhiệm và chính thức được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Công binh ''(là chỉ huy thứ 2 của ngành Công binh thay thế Trung tá Trần Ngọc Thức bị kỷ luật giải ngũ vì liên quan đến vụ vũ nữ [[Cẩm Nhung]] bị tạt át xít).
Năm 1963, sau cuộc đảo chính Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]] (ngày 1 tháng 11), ông được thăng cấp [[Đại tá]] tại nhiệm và chính thức được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Công binh (là chỉ huy thứ 2 của ngành Công binh thay thế Trung tá Trần Ngọc Thức bị kỷ luật giải ngũ vì liên quan đến vụ vũ nữ [[Cẩm Nhung]] bị tạt át xít).


Tháng 10 năm 1964, ông được vinh thăng hàm [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm. Qua năm 1966, ngành Công binh được cải danh thành Cục Công binh và chức danh chỉ huy ngành được đổi thành Cục trưởng.
Tháng 10 năm 1964, ông được thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm. Qua đầu năm 1965, ngành Công binh được cải danh thành Cục Công binh và chức danh Chỉ huy trưởng của ngành được đổi thành Cục trưởng.


Năm 1967, ông được giải ngũ ''(hồi hưu)''. Khi trở về đời sông dân sự, ông tiếp tục học lên Đại học Dược khoa. Tốt nghiệp trở thành Dược sĩ.
Cuối năm 1965, ông được giải ngũ (hồi hưu). Khi trở về đời sông dân sự, ông tiếp tục học lên Đại học Dược khoa. Tốt nghiệp trở thành Dược sĩ.
==1975==
==1975==


Sau ngày 30 tháng 4, ông cùng gia đình sang định cư ở Pháp.
Ngày 30 tháng 4, ông cùng gia đình di tản khỏi Việt Nam. Sau đó xin được định cư ở Pháp.


==Tham khảo==
==Tham khảo==

Phiên bản lúc 10:00, ngày 2 tháng 6 năm 2016

Phạm Đăng Lân
Sinh1927
Sài Gòn
Thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1947-1967
Quân hàm Chuẩn tướng
Đơn vịCục Công binh Việt Nam Cộng hòa
Chỉ huyQuân đội Liên hiệp Pháp
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Phạm Đăng Lân (1927), nguyên là một tướng lĩnh ngành Công binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ khóa 2 trường Võ bị Viễn Đông do Chính quyền thuộc địa Pháp mở ra tại một tỉnh thuộc duyên hải miền đông Nam phần với mục đích đào tạo sĩ quan người Việt phục vụ cho Quân đội Liên hiệp Pháp. Trong thời gian tại ngũ, ông chỉ phục vụ trong ngành chuyên môn của mình.

Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh vào tháng 3 năm 1927 tại Sài Gòn trong một gia đình thương nhân. Tốt nghiệp trung học phổ thông chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).

Mùa thu năm 1947, ông nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 47/101.388. Theo học khóa Đỗ Hữu Vị * Trường sĩ quan Nước Ngọt Vũng Tàu, khai giảng vào tháng 8 năm 1947. Tháng 6 năm 1948, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được tuyển chọn vào ngành Công binh với chức vụ Trung đội trưởng của Đại đội 2 Công binh chiến đấu thuộc Đệ nhị Quân khu.

  • * (Khoá Đỗ Hữu Vị còn gọi là khoá 2 của trường Võ bị Liên quân Viễn Đông, khoá 1 được mở và đào tạo sĩ quan ở Đà Lạt, sau đó dời về Vũng Tàu đổi tên thành trường sĩ quan Nước Ngọt).

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Năm 1950, chuyển sang phục vụ cho Quân đội Quốc gia ông được thăng cấp Trung úy tại nhiệm, sau đó được cử làm Đại đội trưởng Đại đội 2 Công binh chiến đấu. Đầu năm 1953, ông được thăng cấp Đại úy và được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Công binh chiến đấu.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Cuối tháng 3 năm 1955, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử vào chức vụ Chỉ huy trưởng Trường Công binh. Cuối tháng 10 cùng năm, nền Đệ nhất Cộng hòa ra đời, đồng thời Quân đội Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa Tháng 12 cuối năm, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm.

Giữa năm 1957, ông được giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên đoàn 4 Công binh kiêm Chỉ huy phó Bộ chỉ huy Công binh. Đến cuối năm 1962 Ông được chỉ định vào chức vụ quyền Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Công binh.

Năm 1963, sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm (ngày 1 tháng 11), ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm và chính thức được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Công binh (là chỉ huy thứ 2 của ngành Công binh thay thế Trung tá Trần Ngọc Thức bị kỷ luật giải ngũ vì liên quan đến vụ vũ nữ Cẩm Nhung bị tạt át xít).

Tháng 10 năm 1964, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Qua đầu năm 1965, ngành Công binh được cải danh thành Cục Công binh và chức danh Chỉ huy trưởng của ngành được đổi thành Cục trưởng.

Cuối năm 1965, ông được giải ngũ (hồi hưu). Khi trở về đời sông dân sự, ông tiếp tục học lên Đại học Dược khoa. Tốt nghiệp trở thành Dược sĩ.

1975

Ngày 30 tháng 4, ông cùng gia đình di tản khỏi Việt Nam. Sau đó xin được định cư ở Pháp.

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa. Hương Quê. tr. 899. ISBN 978-0-9852182-0-1.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)