Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Thành Hoàng”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 6: Dòng 6:
| nơi mất=
| nơi mất=
| hình=
| hình=
| thuộc= [[Tập tin:GOFVNflag.jpg|30px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| thuộc= [[Tập tin: GOFVNflag.jpg|30px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| năm phục vụ= 1949-1974
| năm phục vụ= 1949-1974
| cấp bậc= [[Tập tin:US-O7 insignia.svg|12px]] [[Chuẩn tướng]]
| cấp bậc= [[Tập tin: US-O7 insignia.svg|15px]] [[Chuẩn tướng]]
| đơn vị= Sư đoàn Bộ binh<br>Quân đoàn II
| đơn vị= Sư đoàn 7 và 9 Bộ binh<br/>Bộ Tư lệnh Quân đoàn II, III và IV
| chỉ huy= Quân đội Liên hiệp Pháp<br>Quân đội Quốc gia Việt Nam<br>Quân lực Việt Nam Cộng hòa
| chỉ huy= Quân đội Liên hiệp Pháp<br/>Quân đội Quốc gia Việt Nam<br/>Quân lực Việt Nam Cộng hòa
| công việc khác= Chánh Thanh tra cấp Quân đoàn
}}
}}
'''Nguyễn Thành Hoàng''' (1924), nguyên là một tướng lĩnh bộ binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], mang quân hàm [[Chuẩn tướng]]. Ông xuất thân từ trường Võ bị Quốc gia do Chính phủ Quốc gia Việt Nam được sự hỗ trợ của Quân đội Pháp mở ra ở miền Trung Việt Nam vào thời kỳ Quân đội Quốc gia đang chuẩn bị hình thành. Ông đã tuần tự giữ từ chức vụ Trung đội trưởng cho đến Tư lệnh Sư đoàn trong Binh chủng Bộ binh của Việt Nam Cộng hoà.
'''Nguyễn Thanh Hoàng''' (1924), nguyên là một tướng lĩnh bộ binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], cấp bậc [[Chuẩn tướng]]. Ông xuất thân từ trường Võ bị Quốc gia do Chính phủ Quốc gia Việt Nam được sự hỗ trợ của Quân đội Pháp mở ra ở miền Trung Việt Nam vào thời kỳ Quân đội Quốc gia đang chuẩn bị hình thành. Ông đã tuần tự giữ từ chức vụ Trung đội trưởng cho đến Tư lệnh Sư đoàn trong Quân chủng Bộ binh của Việt Nam Cộng hòa.

==Tiểu sử & binh nghiệp==
==Tiểu sử & binh nghiệp==
Ông sinh vào tháng 11-1924 tại Sài Gòn trong một gia đình trung lưu. Tốt nghiệp Trung học Phổ thông chương trình Pháp tại Sài Gòn với văn bằng Tú tài 1. Sau đó ông được tuyển dụng làm Công chức cho Nhà nước Bảo hộ Pháp một thời gian ngắn.
Ông sinh vào tháng 11 năm 1924 tại Sài Gòn trong một gia đình trung lưu. Năm 1946, ông tốt nghiệp Trung học Phổ thông chương trình Pháp tại Sài Gòn với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Sau đó ông được tuyển dụng làm Công chức cho nhà nước Bảo hộ Pháp cho đến ngày gia nhập quân đội.

Đầu tháng 9 năm 1949, thi hành lệnh động viên của Chính phủ Quốc gia mới hình thành, ông nhập ngũ vào '''Quân đội Liên hiệp Pháp''', mang số quân: 44/110.290. Ông được theo học khóa 2 Quang Trung tại trường Võ bị Quốc gia Huế, khai giảng ngày 25 tháng 9 năm 1949. Ngày 24 tháng 6 năm 1950 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]] hiện dịch. Ra trường, ông được phân bổ vào chức vụ Trung đội trưởng trong Tiểu đoàn bộ binh Việt Nam của '''Quân đội Quốc gia'''. Qua năm 1952, ông được thăng cấp [[Trung úy]] và được cử giữ chức Đại đội trưởng.


Năm 1949: Ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 44/110.290. Theo học khoá 2 Quang Trung trường Võ bị Quốc gia Huế ''(khai giảng: tháng 25/9/1949, mãn khoá: 24-6-1950)''. Tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]]. Ra trường, được phân bổ vào chức vụ Trung đội trưởng trong Tiểu đoàn bộ binh Việt Nam của '''Quân đội Quốc gia'''. Qua năm 1952, ông được thăng cấp [[Trung úy]] và được cử giữ chức Đại đội trưởng.
==Quân đội Việt Nam Cộng hoà==
==Quân đội Việt Nam Cộng hoà==
Năm 1955: Sau khi Chính thể nền Đệ nhất Cộng hoà hình thành, ông được thăng cấp [[Đại úy]] và thăng chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn bộ binh. Đến năm 1959, ông lên cấp [[Thiếu tá]] và được chỉ định làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn bộ binh.
Cuối năm 1955, sau khi Chính thể nền Đệ nhất Cộng hòa hình thành, ông được thăng cấp [[Đại úy]] và giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn bộ binh. Đến đầu năm 1959, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] và được chỉ định làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn bộ binh.

Cuối năm 1963, sau cuộc đảo chính Chính quyền Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]] (ngày 1 tháng 11). Ngày 2 tháng 11 ông được thăng cấp [[Trung tá]] và được giữ chức Tham mưu trưởng Sư đoàn 7 bộ binh.


Năm 1963: Sau cuộc đảo chính Chính quyền Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]], ngày 2/11 ông được thăng cấp [[Trung tá]] được giữ chức Tham mưu trưởng đoàn 7 bộ binh.
Giữa năm 1966, ông được thăng cấp [[Đại ]] chuyển đi làm lệnh phó đoàn 9 bộ binh. Qua năm 1967, ông được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn III & Vùng 3 chiến thuật do Trung tướng [[Lê Nguyên Khang]] làm Tư lệnh.


Năm 1966: Ông được thăng cấp [[Đại ]] chuyển đi làm Tư lệnh phó Sư đoàn 9 bộ binh. Qua năm 1967, ông được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn III & Vùng 3 chiến thuật do Trung tướng [[Lê Nguyên Khang]] làm Tư lệnh.
Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp [[Chuẩn tướng]]. Qua tháng 7 cùng năm, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 7 bộ binh thay thế Thiếu tướng [[Nguyễn Viết Thanh]] đi làm lệnh Quân đoàn IV & Vùng 4 chiến thuật.


Năm 1968: Ngày Quân lực 19-6, ông được vinh thăng cấp [[Chuẩn tướng]]. Qua tháng 7, được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 7 bộ binh thay thế Thiếu tướng [[Nguyễn Viết Thanh]] đi làm Tư lệnh Quân đoàn IV & Vùng 4 chiến thuật.
Trung tuần tháng giêng năm 1970, ông được lệnh bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 7 bộ binh lại cho Đại [[Nguyễn Khoa Nam]]. Sau đó được cử vào chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn II & Vùng 2 chiến thuật.


Năm 1970: Ông được lệnh bàn giao chức vụ lệnh đoàn 7 bộ binh lại cho Đại [[Nguyễn Khoa Nam]]. Sau đó được cử vào chức vụ lệnh phó Quân đoàn II & Vùng 2 chiến thuật.
Đầu năm 1974, ông được bổ nhiệm chức vụ Chánh Thanh tra Quân đoàn II Quân khu 2. Tháng 4 cùng năm ông được xét cho giải ngũ với do đã phục vụ quân đội trên 20 năm.


Năm 1974: Ông được bổ nhiệm chức vụ Chánh Thanh tra Quân đoàn II và Quân khu 2. Tháng 4 cùng năm ông được xét cho giải ngũ với lý do đáo hạn tuổi.
==1975==
==1975==
Đêm 29-4, di tản ra khơi trên Tuần Dương hạm HQ-601 do Hải quân Đại úy Trần Minh Chánh ''(Trưởng nam của Đề đốc Trần Văn Chơn, học khóa 1 Đăc biệt Hải quân)'' làm Hạm trưởng.
Đêm 29 tháng 4, di tản ra khơi trên Tuần Dương hạm HQ-601 do Hải quân Đại úy Trần Minh Chánh ''(Trưởng nam của Đề đốc Trần Văn Chơn, học khóa 1 Đăc biệt Hải quân)'' làm Hạm trưởng.


Sau đó, ông định cư tại ngoại quốc ''(không được rõ định cư ở nước nào)
Sau đó, ông định cư tại ngoại quốc ''(không được rõ định cư ở nước nào)

Phiên bản lúc 10:32, ngày 7 tháng 8 năm 2016

Nguyễn Thanh Hoàng
Sinh1924
Sài Gòn
Thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1949-1974
Quân hàm Chuẩn tướng
Đơn vịSư đoàn 7 và 9 Bộ binh
Bộ Tư lệnh Quân đoàn II, III và IV
Chỉ huyQuân đội Liên hiệp Pháp
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Công việc khácChánh Thanh tra cấp Quân đoàn

Nguyễn Thanh Hoàng (1924), nguyên là một tướng lĩnh bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Quốc gia do Chính phủ Quốc gia Việt Nam được sự hỗ trợ của Quân đội Pháp mở ra ở miền Trung Việt Nam vào thời kỳ Quân đội Quốc gia đang chuẩn bị hình thành. Ông đã tuần tự giữ từ chức vụ Trung đội trưởng cho đến Tư lệnh Sư đoàn trong Quân chủng Bộ binh của Việt Nam Cộng hòa.

Tiểu sử & binh nghiệp

Ông sinh vào tháng 11 năm 1924 tại Sài Gòn trong một gia đình trung lưu. Năm 1946, ông tốt nghiệp Trung học Phổ thông chương trình Pháp tại Sài Gòn với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Sau đó ông được tuyển dụng làm Công chức cho nhà nước Bảo hộ Pháp cho đến ngày gia nhập quân đội.

Đầu tháng 9 năm 1949, thi hành lệnh động viên của Chính phủ Quốc gia mới hình thành, ông nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 44/110.290. Ông được theo học khóa 2 Quang Trung tại trường Võ bị Quốc gia Huế, khai giảng ngày 25 tháng 9 năm 1949. Ngày 24 tháng 6 năm 1950 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được phân bổ vào chức vụ Trung đội trưởng trong Tiểu đoàn bộ binh Việt Nam của Quân đội Quốc gia. Qua năm 1952, ông được thăng cấp Trung úy và được cử giữ chức Đại đội trưởng.

Quân đội Việt Nam Cộng hoà

Cuối năm 1955, sau khi Chính thể nền Đệ nhất Cộng hòa hình thành, ông được thăng cấp Đại úy và giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn bộ binh. Đến đầu năm 1959, ông được thăng cấp Thiếu tá và được chỉ định làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn bộ binh.

Cuối năm 1963, sau cuộc đảo chính Chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm (ngày 1 tháng 11). Ngày 2 tháng 11 ông được thăng cấp Trung tá và được giữ chức Tham mưu trưởng Sư đoàn 7 bộ binh.

Giữa năm 1966, ông được thăng cấp Đại tá và chuyển đi làm Tư lệnh phó Sư đoàn 9 bộ binh. Qua năm 1967, ông được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn III & Vùng 3 chiến thuật do Trung tướng Lê Nguyên Khang làm Tư lệnh.

Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Chuẩn tướng. Qua tháng 7 cùng năm, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 7 bộ binh thay thế Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh đi làm Tư lệnh Quân đoàn IV & Vùng 4 chiến thuật.

Trung tuần tháng giêng năm 1970, ông được lệnh bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 7 bộ binh lại cho Đại tá Nguyễn Khoa Nam. Sau đó được cử vào chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn II & Vùng 2 chiến thuật.

Đầu năm 1974, ông được bổ nhiệm chức vụ Chánh Thanh tra Quân đoàn II và Quân khu 2. Tháng 4 cùng năm ông được xét cho giải ngũ với lý do đã phục vụ quân đội trên 20 năm.

1975

Đêm 29 tháng 4, di tản ra khơi trên Tuần Dương hạm HQ-601 do Hải quân Đại úy Trần Minh Chánh (Trưởng nam của Đề đốc Trần Văn Chơn, học khóa 1 Đăc biệt Hải quân) làm Hạm trưởng.

Sau đó, ông định cư tại ngoại quốc (không được rõ định cư ở nước nào)

Gia đình

  • Phu nhân: Bà Sử Thị Liên

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011), Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.