Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chùa Ông Bắc”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Kiến trúc: clean up, replaced: → using AWB
n →‎Vị trí, lịch sử: sửa chính tả 3, replaced: Hà TiênHà Tiên using AWB
Dòng 7: Dòng 7:
Chùa Ông Bắc tọa lạc trên đường [[Phạm Hồng Thái]] (mặt chính hướng ra sông [[Long Xuyên]], cách cầu [[Duy Tân]] khoảng 10 m); nay thuộc phường [[Mỹ Long]], thành phố [[Long Xuyên]].
Chùa Ông Bắc tọa lạc trên đường [[Phạm Hồng Thái]] (mặt chính hướng ra sông [[Long Xuyên]], cách cầu [[Duy Tân]] khoảng 10 m); nay thuộc phường [[Mỹ Long]], thành phố [[Long Xuyên]].


Chùa được xây dựng ở [[thế kỷ 19]], khi vùng đất này còn mang tên Đông Xuyên; sau đó thuộc thôn [[Mỹ Phước]], huyện [[Tây Xuyên]], phủ [[Tuy Biên]], tỉnh An Giang thời [[nhà Nguyễn]]<ref>Năm [[1832]], [[Minh Mạng]] đổi Ngũ trấn thành Lục tỉnh là [[Thành Gia Định|Phiên An]], [[Biên Hòa]], [[Định Tường]], [[Vĩnh Long]], [[An Giang]] và [[Hà Tiên]]. Khi ấy, An Giang có 2 phủ: Tuy Biên, Tân Thành và 4 huyện: Tây Xuyên, Phong Phú, Đông Xuyên, Vĩnh An. Địa danh Long Xuyên ra đời từ năm [[1870]], sau khi Pháp đến chiếm thành An Giang trước đó 3 năm. Trước khi Pháp đến tên Long Xuyên được dùng để chỉ xứ [[Cà Mau]] hiện nay.</ref>.
Chùa được xây dựng ở [[thế kỷ 19]], khi vùng đất này còn mang tên Đông Xuyên; sau đó thuộc thôn [[Mỹ Phước]], huyện [[Tây Xuyên]], phủ [[Tuy Biên]], tỉnh An Giang thời [[nhà Nguyễn]]<ref>Năm [[1832]], [[Minh Mạng]] đổi Ngũ trấn thành Lục tỉnh là [[Thành Gia Định|Phiên An]], [[Biên Hòa]], [[Định Tường]], [[Vĩnh Long]], [[An Giang]] và [[Hà Tiên (tỉnh)|Hà Tiên]]. Khi ấy, An Giang có 2 phủ: Tuy Biên, Tân Thành và 4 huyện: Tây Xuyên, Phong Phú, Đông Xuyên, Vĩnh An. Địa danh Long Xuyên ra đời từ năm [[1870]], sau khi Pháp đến chiếm thành An Giang trước đó 3 năm. Trước khi Pháp đến tên Long Xuyên được dùng để chỉ xứ [[Cà Mau]] hiện nay.</ref>.


Theo những người cao tuổi và căn cứ vào bia ký kể lai lịch chùa, thì ban đầu chùa khá đơn sơ do những [[người Hoa]] từ tỉnh [[Quảng Đông]] ([[Trung Quốc]]) đến lập nghiệp rồi xây dựng để làm nơi hội họp, sinh hoạt.
Theo những người cao tuổi và căn cứ vào bia ký kể lai lịch chùa, thì ban đầu chùa khá đơn sơ do những [[người Hoa]] từ tỉnh [[Quảng Đông]] ([[Trung Quốc]]) đến lập nghiệp rồi xây dựng để làm nơi hội họp, sinh hoạt.

Phiên bản lúc 07:02, ngày 10 tháng 8 năm 2016

Chùa Ông Bắc

Chùa Ông Bắc, tên chữ là Quảng Đông tỉnh hội quán (chữ Hán: 廣東省會館), là một ngôi chùa của người Hoathành phố Long Xuyên, và là hội quán người Hoa đầu tiên ở An Giang (Việt Nam)[1].

Chùa đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 15 tháng 6 năm 1987.

Vị trí, lịch sử

Chùa Ông Bắc tọa lạc trên đường Phạm Hồng Thái (mặt chính hướng ra sông Long Xuyên, cách cầu Duy Tân khoảng 10 m); nay thuộc phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên.

Chùa được xây dựng ở thế kỷ 19, khi vùng đất này còn mang tên Đông Xuyên; sau đó thuộc thôn Mỹ Phước, huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang thời nhà Nguyễn[2].

Theo những người cao tuổi và căn cứ vào bia ký kể lai lịch chùa, thì ban đầu chùa khá đơn sơ do những người Hoa từ tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) đến lập nghiệp rồi xây dựng để làm nơi hội họp, sinh hoạt.

Như hai câu đối tại cổng chính đã thể hiện rõ ý nghĩa này:

Tác khách tận đồng hương bạt thiệp châu nhai đôn nghĩa khí,
Cư dân hàm lạc nghiệp kinh dinh đồng trụ dụ tài nguyên.

Tạm dịch:

Làm khách xứ người cùng một gốc quê hương lặn lội đến sườn núi đỏ bạt ngàn, càng hun đúc nghĩa khí,
Đến ở vùng đất này đều an cư lạc nghiệp, tài nguyên phong phú, làm ăn giàu có.

Đến năm Giáp Ngọ (1887), ông Quảng Thành Lợi và Hòa Mậu Xương là hai người Hoa giàu có trong vùng, đứng ra vận động đồng hương và người dân tín ngưỡng, đóng góp tiền của, khởi công sửa chữa lần thứ hai.

Kiến trúc

Bàn thờ Bắc Đế trong cung thờ

Qua 4 năm xây dựng, đến năm Mậu Tuất (1891), chùa được hoàn thành và trở thành một công trình kiến trúc nghệ thuật đẹp và đáng tiêu biểu của thành phố Long Xuyên.

Chùa có diện tích 400 , kiến trúc theo chữ Quốc (国). Trên cửa có khắc nổi hàng chữ Hán: Quảng Đông tỉnh Hội Quán. Nối với tiền sảnh và cung thờ Bắc Đế là hai đường đi song song có mái che. Bên trong có nhà thủy tạ, Đông Lang và Tây Lang.

Mái nóc chùa lợp ngói đại ống tráng men xanh, trên cạnh nóc chạm khắc hình bát tiên, voi, rồng, phượng, ... cùng những bức phù điêu, hoa văn cổ, đẹp mang sắc thái nghệ thuật nhà Nguyễn pha lẫn kiến trúc nghệ thuật Trung Quốc.

Cột gỗ tròn bằng cây căm xe, tường gạch hồ vôi ô dước, nền lát gạch hoa, khung bao cửa chính ra vào được xây dựng bằng những tảng đá xanh được chạm khắc tinh xảo.

Nội thất chùa có cấu trúc cảnh phong thủy, thoáng mát, trên đỉnh cao tứ giác có nhiều bức chạm trổ đẹp, hình tam cấp tượng trưng cho ba cõi: Thiên, địa, nhân. Nhìn chung, chùa đã thể hiện toàn cảnh một mô hình thu nhỏ của các ngôi nhà quan lại phong kiến Trung Hoa.

Di vật

Từ tiền sảnh nhìn vào trong cung thờ

Trong chùa có 3 khánh, một tủ thờ sơn son thiếp vàng, một chuông đồng, đỉnh đồng... Bên hông chùa còn ba bia đá ghi bằng chữ Hán kể lại lịch sử xây dựng chùa.

Người được thờ chính tại chính điện là Bắc Đế[3] (cao khoảng 0, 7m), bên trái thờ Thiên Hậu, bên phải thờ Quan Công. Ngoài ra Phật Thích Ca, Địa Tạng bồ tát, Ngọc hoàng Thượng đế... cũng được tôn thờ tại đây. Tất cả tập họp thành một bản sắc văn hóa của người Hoa, đã hòa nhập lâu đời vào nền văn hóa Việt Nam.

Hàng năm, vào những ngày 3 tháng 3 âm lịch (cúng vía Bắc Đế), 22 tháng 3 âm lịch (cúng vía Thiên Hậu) và 21 tháng 6 âm lịch (cúng vía Quan Công), trong bang hội và nhân dân quanh vùng đến dự lễ rất đông.

Chú thích

  1. ^ Theo Kỷ lục An Giang 2009, trang 59.
  2. ^ Năm 1832, Minh Mạng đổi Ngũ trấn thành Lục tỉnh là Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An GiangHà Tiên. Khi ấy, An Giang có 2 phủ: Tuy Biên, Tân Thành và 4 huyện: Tây Xuyên, Phong Phú, Đông Xuyên, Vĩnh An. Địa danh Long Xuyên ra đời từ năm 1870, sau khi Pháp đến chiếm thành An Giang trước đó 3 năm. Trước khi Pháp đến tên Long Xuyên được dùng để chỉ xứ Cà Mau hiện nay.
  3. ^ Bắc Đế tức Bắc Du Chơn Võ, hay còn được gọi Bắc Đế Trấn Vũ, một nhân vật khá nổi tiếng trong truyện Tàu. Theo truyền thuyết, ông là một vị tinh quân từ cõi trời xuống trần để trừ diệt yêu ma, trấn trị phong ba, lũ lụt, giúp đỡ dân lành.

Tham khảo

  • Nhiều người soạn, Kỷ lục An Giang 2009, Nhà xuất bản Thông Tấn, 2010.
  • Tư liệu do chùa Ông Bắc cung cấp.
Một số bài viết liên quan đến chùa miếu ở An Giang
Chùa Linh SơnMiếu Bà Chúa XứChùa Phật LớnChùa Ông BắcChùa Tây AnĐình Mỹ PhướcChùa Giồng ThànhChùa Phước ĐiềnChùa Phi Lai, Chùa Tam BửuĐền thờ Quản cơ Trần Văn ThànhĐình Châu PhúChùa Xà Tón