Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bullet for My Valentine”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
SieBot (thảo luận | đóng góp)
Xqbot (thảo luận | đóng góp)
n robot Thêm: cy:Bullet for my Valentine; sửa cách trình bày
Dòng 6: Dòng 6:
| Background = group_or_band
| Background = group_or_band
| Origin = [[Bridgend]], [[Wales]], [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]]
| Origin = [[Bridgend]], [[Wales]], [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]]
| Genre = [[Metalcore]]<ref>http://www.metal-observer.com/articles.php?lid=1&sid=1&id=9117</ref><br> [[Heavy metal music|Heavy metal]]<ref>http://www.bbc.co.uk/wales/music/sites/bulletformyvalentine/pages/poison_live_at_brixton.shtml</ref>
| Genre = [[Metalcore]]<ref>http://www.metal-observer.com/articles.php?lid=1&sid=1&id=9117</ref><br /> [[Heavy metal music|Heavy metal]]<ref>http://www.bbc.co.uk/wales/music/sites/bulletformyvalentine/pages/poison_live_at_brixton.shtml</ref>
|Years_active = 1998–hiện tại
|Years_active = 1998–hiện tại
| Label = Columbia Records ([[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh]])<br/>Trustkill Records ([[Mỹ]])<br/>Gun Records/Sony-BMG<br/>Jive Records (Hiện tại)
| Label = Columbia Records ([[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh]])<br />Trustkill Records ([[Mỹ]])<br />Gun Records/Sony-BMG<br />Jive Records (Hiện tại)
| Associated_acts = 12 Pints of My Girlfriend's Blood<br/>Jeff Killed John
| Associated_acts = 12 Pints of My Girlfriend's Blood<br />Jeff Killed John
| URL = [http://bulletformyvalentine1.com bulletformyvalentine1.com]
| URL = [http://bulletformyvalentine1.com bulletformyvalentine1.com]
| Current_members = Matt Tuck<br/>Michael Paget<br/>Jason James<br/>Michael Thomas| Past_members = Nick Crandle
| Current_members = Matt Tuck<br />Michael Paget<br />Jason James<br />Michael Thomas| Past_members = Nick Crandle
|}}
|}}


Dòng 19: Dòng 19:




==Tiểu sử==
== Tiểu sử ==


"Jeff Killed John" là tên nhóm nhạc gốc của Bullet For My Valentine và được thành lập vào năm [[1998]] bởi Matthew Tuck ([[ghi-ta|guitar]] và [[hát]]), Michael "Padge" Paget ([[ghi-ta|guitar]]), Nick Crandle ([[Ghi-ta#Guitar bass|guitar bass]]), and Michael "Moose" Thomas ([[trống]]), trong khi học nhạc tại ''Trường Đại học Bridgend''. Chơi lại những bài hát của [[Nirvana (ban nhạc)|Nirvana]] và [[Metallica]], ban nhạc đã phát hành một đĩa nhạc gồm 2 bài vào năm [[2002]] và được sản xuất bởi Greg Haver, tên là ''You/Play With Me''. Nó nhận được lợi nhuận qua chương trình Pynci scheme cho những [[nhạc sĩ]] xứ [[Wales]] và được chơi trên đài BBC Radio 1.<ref name="Bullet For My Valentine biography">{{cite web
"Jeff Killed John" là tên nhóm nhạc gốc của Bullet For My Valentine và được thành lập vào năm [[1998]] bởi Matthew Tuck ([[ghi-ta|guitar]] và [[hát]]), Michael "Padge" Paget ([[ghi-ta|guitar]]), Nick Crandle ([[Ghi-ta#Guitar bass|guitar bass]]), and Michael "Moose" Thomas ([[trống]]), trong khi học nhạc tại ''Trường Đại học Bridgend''. Chơi lại những bài hát của [[Nirvana (ban nhạc)|Nirvana]] và [[Metallica]], ban nhạc đã phát hành một đĩa nhạc gồm 2 bài vào năm [[2002]] và được sản xuất bởi Greg Haver, tên là ''You/Play With Me''. Nó nhận được lợi nhuận qua chương trình Pynci scheme cho những [[nhạc sĩ]] xứ [[Wales]] và được chơi trên đài BBC Radio 1.<ref name="Bullet For My Valentine biography">{{cite web
Dòng 29: Dòng 29:
Những thành viên của Jeff Killed John muốn theo đuổi dòng loại [[nu metal]] dựa trên phong cách của 2 nhóm nhạc [[Korn]] và [[Limp Bizkit]] — chơi những gì mà họ cho là sẽ đưa họ đến với thành công và làm cho những công ty thu âm muốn nghe. Nghệ sĩ chơi [[Ghi-ta#Guitar bass|guitar bass]] ''Nick Crandle'' đã rời nhóm khi chuẩn bị tiến vào phòng thu âm và đã được thay thế bởi ''Jason "Jay" James''. Khi dòng nhạc [[nu metal]] đã trở nên ít phổ biến hơn, ban nhạc đã đưa ra cố gắng cuối cùng bằng việc đổi tên nhóm thành "Bullet for My Valentine", cái tên mang nghĩa "tội ác giả tưởng với lời nhạc về tình yêu". Một sự đổi hướng trong [[âm nhạc]] đã được đồng ý và đã bắt đầu chơi những bài hát họ muốn nghe chứ không phải theo những ban nhạc đã có nữa.<ref name="Bullet For My Valentine biography"/>
Những thành viên của Jeff Killed John muốn theo đuổi dòng loại [[nu metal]] dựa trên phong cách của 2 nhóm nhạc [[Korn]] và [[Limp Bizkit]] — chơi những gì mà họ cho là sẽ đưa họ đến với thành công và làm cho những công ty thu âm muốn nghe. Nghệ sĩ chơi [[Ghi-ta#Guitar bass|guitar bass]] ''Nick Crandle'' đã rời nhóm khi chuẩn bị tiến vào phòng thu âm và đã được thay thế bởi ''Jason "Jay" James''. Khi dòng nhạc [[nu metal]] đã trở nên ít phổ biến hơn, ban nhạc đã đưa ra cố gắng cuối cùng bằng việc đổi tên nhóm thành "Bullet for My Valentine", cái tên mang nghĩa "tội ác giả tưởng với lời nhạc về tình yêu". Một sự đổi hướng trong [[âm nhạc]] đã được đồng ý và đã bắt đầu chơi những bài hát họ muốn nghe chứ không phải theo những ban nhạc đã có nữa.<ref name="Bullet For My Valentine biography"/>


===Ký hợp đồng thu âm===
=== Ký hợp đồng thu âm ===


Khoảng từ 6 đến 10 tháng, Bullet for My Valentine biểu diễn tại các buổi hoà nhạc để tìm kiếm sự quan tâm của các hãng thu âm. Tại 1 show ở [[London]], hãng ''Roadrunner Records'' đã thấy thích họ và đưa ra hợp đồng cho nhóm. Hợp đồng bị huỷ nên ban nhạc ký hợp đồng khác với hãng ''Sony BMG'', và một hợp đồng đăng ký với Visible Noise ở [[Anh]]. Sự lựa chọn hãng Sony như lời trưởng ban nhạc Matt Tuck nói rằng "Chúng tôi thấy sẽ có nhiều cơ hội được mở ra cho chúng tôi với bản hợp đồng với Sony".<ref>{{cite web
Khoảng từ 6 đến 10 tháng, Bullet for My Valentine biểu diễn tại các buổi hoà nhạc để tìm kiếm sự quan tâm của các hãng thu âm. Tại 1 show ở [[London]], hãng ''Roadrunner Records'' đã thấy thích họ và đưa ra hợp đồng cho nhóm. Hợp đồng bị huỷ nên ban nhạc ký hợp đồng khác với hãng ''Sony BMG'', và một hợp đồng đăng ký với Visible Noise ở [[Anh]]. Sự lựa chọn hãng Sony như lời trưởng ban nhạc Matt Tuck nói rằng "Chúng tôi thấy sẽ có nhiều cơ hội được mở ra cho chúng tôi với bản hợp đồng với Sony".<ref>{{cite web
Dòng 54: Dòng 54:
|accessdate=2007-11-09}}</ref>
|accessdate=2007-11-09}}</ref>


===''The Poison''===
=== ''The Poison'' ===


[[Album]] đầu tay của Bullet for My Valentine, ''[[The Poison]]'', được phát hành ở [[Anh]] vào ngày [[3 tháng 10]] năm [[2005]] và vào [[14 tháng 2]] năm [[2006]] ở [[Mỹ]]. [[Album]] đã tiến vào bảng xếp hạng Billboard 200 ở vị trí thứ 128,<ref name="Chart Listing For The Week Of Mar 04 2006:">{{cite web
[[Album]] đầu tay của Bullet for My Valentine, ''[[The Poison]]'', được phát hành ở [[Anh]] vào ngày [[3 tháng 10]] năm [[2005]] và vào [[14 tháng 2]] năm [[2006]] ở [[Mỹ]]. [[Album]] đã tiến vào bảng xếp hạng Billboard 200 ở vị trí thứ 128,<ref name="Chart Listing For The Week Of Mar 04 2006:">{{cite web
Dòng 127: Dòng 127:
|accessdate=2007-11-07}}</ref>
|accessdate=2007-11-07}}</ref>


=== ''Scream Aim Fire'' ===
=== ''Scream Aim Fire'' ===


[[Album]] thứ 2 của Bullet for My Valentine được thu âm tại phòng thu Sonic Ranch Studios và được sản xuất bởi ''Colin Richardson''.<ref name="Bullet For My Valentine In The Thick Of New Album">{{cite web
[[Album]] thứ 2 của Bullet for My Valentine được thu âm tại phòng thu Sonic Ranch Studios và được sản xuất bởi ''Colin Richardson''.<ref name="Bullet For My Valentine In The Thick Of New Album">{{cite web
Dòng 168: Dòng 168:
== Phong cách ==
== Phong cách ==
{{Sound sample box align left|Bản nhạc mẫu:}}
{{Sound sample box align left|Bản nhạc mẫu:}}
[[Hình:Bullet For My Vallentine - Tears Don't Fall.ogg|right|120px]]
[[Tập tin:Bullet For My Vallentine - Tears Don't Fall.ogg|right|120px]]
{{Nghe
{{Nghe
|filename=Bullet For My Vallentine - Tears Don't Fall.ogg
|filename=Bullet For My Vallentine - Tears Don't Fall.ogg
Dòng 251: Dòng 251:
== Danh sách các đĩa nhạc ==
== Danh sách các đĩa nhạc ==
=== Các Album ===
=== Các Album ===
*2005: ''[[The Poison]]'' #128 U.S.
* 2005: ''[[The Poison]]'' #128 U.S.
*2008: ''[[Scream Aim Fire]]'' #4 U.S. #5 U.K. #4 AUS. #10 IRE.
* 2008: ''[[Scream Aim Fire]]'' #4 U.S. #5 U.K. #4 AUS. #10 IRE.


=== Các EP ===
=== Các EP ===
*2002: ''[[You/Play with Me]]''
* 2002: ''[[You/Play with Me]]''
*2004: ''[[Bullet for My Valentine (EP)|Bullet for My Valentine]]''
* 2004: ''[[Bullet for My Valentine (EP)|Bullet for My Valentine]]''
*2005: ''[[Hand of Blood]]''
* 2005: ''[[Hand of Blood]]''
*2006: ''[[Hand of Blood EP: Live at Brixton]]''
* 2006: ''[[Hand of Blood EP: Live at Brixton]]''


=== Các DVD ===
=== Các DVD ===
Dòng 348: Dòng 348:
{{reflist|2}}
{{reflist|2}}


[[Category:Danh sách các nhóm nhạc metalcore]]
[[Thể loại:Danh sách các nhóm nhạc metalcore]]
[[Category:Ban nhạc Anh]]
[[Thể loại:Ban nhạc Anh]]
[[Category:Ban nhạc heavy metal]]
[[Thể loại:Ban nhạc heavy metal]]
[[Category:Ban nhạc rock]]
[[Thể loại:Ban nhạc rock]]
[[Category:Ban nhạc hard rock]]
[[Thể loại:Ban nhạc hard rock]]
[[Category:Ban nhạc xếp theo tên]]
[[Thể loại:Ban nhạc xếp theo tên]]


[[an:Bullet For My Valentine]]
[[an:Bullet For My Valentine]]
Dòng 360: Dòng 360:
[[ca:Bullet for My Valentine]]
[[ca:Bullet for My Valentine]]
[[cs:Bullet for My Valentine]]
[[cs:Bullet for My Valentine]]
[[cy:Bullet for my Valentine]]
[[da:Bullet for my Valentine]]
[[da:Bullet for my Valentine]]
[[de:Bullet for My Valentine]]
[[de:Bullet for My Valentine]]

Phiên bản lúc 17:01, ngày 18 tháng 11 năm 2009

Bullet for My Valentine
Thông tin nghệ sĩ
Tên gọi khácBFMV
Nguyên quánBridgend, Wales, Anh Quốc
Thể loạiMetalcore[1]
Heavy metal[2]
Năm hoạt động1998–hiện tại
Hãng đĩaColumbia Records (Anh)
Trustkill Records (Mỹ)
Gun Records/Sony-BMG
Jive Records (Hiện tại)
Hợp tác với12 Pints of My Girlfriend's Blood
Jeff Killed John
Thành viênMatt Tuck
Michael Paget
Jason James
Michael Thomas
Cựu thành viênNick Crandle
Websitebulletformyvalentine1.com

Bullet for My Valentine (tạm dịch: Viên Đạn cho Ngày Lễ Tình Yêu) là 1 nhóm nhạc rock thể loại metalcore gồm 4 thành viên từ Bridgend, Wales. Chính gốc được biết đến với cái tên "12 Pints of My Girlfriend's Blood", nhóm đã thành lập năm 1998 và hát lại những bài hát của MetallicaNirvana. Họ thấy rằng tên nhóm của họ quá hình tượng đối với khán giả nên đã đổi tên lại thành "Jeff Killed John". Những khó khăn về tài chính đã đánh dấu một sự đổi mới về âm nhạc và tên nhóm nên họ lại đổi tên thành "Bullet for My Valentine" vào năm 2002, và nhận được một bản hợp đồng thu âm bởi hãng Roadrunner Records. Bản hợp đồng bị huỷ, và họ nhận được một bản hợp đồng thu âm 5 album khác với hãng Sony BMG.

Album đầu tay The Poison của Bullet for My Valentine đã được phát hành vào ngày 3 tháng 10 năm 2005Anh và vào Ngày ValentineMỹ năm 2006 để giới thiệu cho cái tên "Bullet for My Valentine", album này được dành tặng cho người bạn của họ là Simon Roy Denning. Album này đã tiến vào bảng xếp hạng Billboard 200 tại vị trí thứ 128, và ở vị trí thứ 1 tại bảng xếp hạng Top Heatseeker, và đã bán được 375.000 bản sao ở Mỹ đến thời điểm 6 tháng 2 năm 2008. Nhóm đã xuất hiện tại Download Festival, Kerrang! XXV, và tại 1 chuyến lưu diễn với Lacuna CoilRob Zombie, nhưng nhóm đã bị đuổi khỏi chuyến lưu diễn vì lời bình luận của Matthew Tuck tại diễn đàn của nhóm. Album thứ 2 của Bullet for My Valentine tên Scream Aim Fire đã tiến vào vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Billboard 200, với tuần bán đầu tiên được 53.000 bản sao.[3]


Tiểu sử

"Jeff Killed John" là tên nhóm nhạc gốc của Bullet For My Valentine và được thành lập vào năm 1998 bởi Matthew Tuck (guitarhát), Michael "Padge" Paget (guitar), Nick Crandle (guitar bass), and Michael "Moose" Thomas (trống), trong khi học nhạc tại Trường Đại học Bridgend. Chơi lại những bài hát của NirvanaMetallica, ban nhạc đã phát hành một đĩa nhạc gồm 2 bài vào năm 2002 và được sản xuất bởi Greg Haver, tên là You/Play With Me. Nó nhận được lợi nhuận qua chương trình Pynci scheme cho những nhạc sĩ xứ Wales và được chơi trên đài BBC Radio 1.[4]

Những thành viên của Jeff Killed John muốn theo đuổi dòng loại nu metal dựa trên phong cách của 2 nhóm nhạc KornLimp Bizkit — chơi những gì mà họ cho là sẽ đưa họ đến với thành công và làm cho những công ty thu âm muốn nghe. Nghệ sĩ chơi guitar bass Nick Crandle đã rời nhóm khi chuẩn bị tiến vào phòng thu âm và đã được thay thế bởi Jason "Jay" James. Khi dòng nhạc nu metal đã trở nên ít phổ biến hơn, ban nhạc đã đưa ra cố gắng cuối cùng bằng việc đổi tên nhóm thành "Bullet for My Valentine", cái tên mang nghĩa "tội ác giả tưởng với lời nhạc về tình yêu". Một sự đổi hướng trong âm nhạc đã được đồng ý và đã bắt đầu chơi những bài hát họ muốn nghe chứ không phải theo những ban nhạc đã có nữa.[4]

Ký hợp đồng thu âm

Khoảng từ 6 đến 10 tháng, Bullet for My Valentine biểu diễn tại các buổi hoà nhạc để tìm kiếm sự quan tâm của các hãng thu âm. Tại 1 show ở London, hãng Roadrunner Records đã thấy thích họ và đưa ra hợp đồng cho nhóm. Hợp đồng bị huỷ nên ban nhạc ký hợp đồng khác với hãng Sony BMG, và một hợp đồng đăng ký với Visible Noise ở Anh. Sự lựa chọn hãng Sony như lời trưởng ban nhạc Matt Tuck nói rằng "Chúng tôi thấy sẽ có nhiều cơ hội được mở ra cho chúng tôi với bản hợp đồng với Sony".[5]

Vào 15 tháng 11 năm 2004Anh và vào 30 tháng 11 năm 2004Mỹ nhóm nhạc đã phát hành một EP cùng tên với ban nhạc là Bullet for My Valentine (EP). Được sản xuất bởi Colin Richardson và được hoà âm bởi Andy Sneap, bản EP bao gồm 5 bài hát và đánh dấu sản phẩm chính thức đầu tiên của họ.[6] Một EP thứ 2, tên Hand of Blood được phát hành vào 22 tháng 8 năm 2005 bởi hãng Trustkill Records, và chỉ có ở Mỹ. Bản EP này bao gồm 5 bài hát cũ từ EP trước đó và thêm 1 bài hát mới là "4 Words (To Choke Upon)". Daniel Lukes, người cộng tác của tờ Decibel Magazine đã bình luận rằng "nhóm nhạc nên cảm thấy xấu hổ cho bản EP này."[7] Trong khi đó biên tập viên Josh Joyce của Zeromag.com khen rằng "nhóm nhạc đã thể hiện được những kỹ thuật tốt mà không làm khán giả khó hiểu".[8]

The Poison

Album đầu tay của Bullet for My Valentine, The Poison, được phát hành ở Anh vào ngày 3 tháng 10 năm 2005 và vào 14 tháng 2 năm 2006Mỹ. Album đã tiến vào bảng xếp hạng Billboard 200 ở vị trí thứ 128,[9] và nhận được vị trí cao nhất số 2 tại bảng xếp hạng Top Heatseekers, và ở vị trí thứ 11 tại bảng xếp hạng Những Album Riêng hay nhất.[10] Cho đến ngày 6 tháng 2 năm 2008, album đã bán được 375.000 bản sao ở Mỹ.[11][12]

Nhiều ý kiến chuyên nghiệp đã được đưa ra. Biên tập viên Dom Passantino của Stylus Magazine nói rằng "đóng góp của nhóm đối với nền âm nhạc thế giới không nhiều, nhưng theo sát với dòng nhạc của mình hơn Lostprophets", cho 1 điểm C.[13] Bình luận viên Scott Alisoglu của Blabbermouth.net nói rằng Bullet for My Valentine "khá tốt và ít nhất nửa số bài hát khá hơn trung bình", mặc dù "album có thể đoán trước, nhưng vẫn có những đoạn hay".[14]

4 đĩa đơn được phát hành từ The Poison bao gồm "4 Words (To Choke Upon)", đĩa đơn đầu tiên của nhóm, sau đó là "Suffocating Under Words of Sorrow (What Can I Do)". "All These Things I Hate (Revolve Around Me)" vươn lên đỉnh bảng xếp hạng của Hot Mainstream Rock Tracks và ở vị trí thứ 13 tại bảng xếp hạng Modern Rock Tracks. "Tears Don't Fall" vươn lên đỉnh bảng xếp hạng ở vị trí 24 tại bảng xếp hạng Hot Mainstream Rock Tracks và ở vị trí 32 tại Modern Rock Tracks.[15]

Bullet for My Valentine biểu diễn tại Download Festival ở Donington Park trong vòng 3 năm, lần đầu tiên xuất hiện vào năm 2004.[16] Vào năm sau với sự nổi tiếng được nâng cao, Bullet for My Valentine biểu diễn tại những Sân khấu lớn hơn,[17] và vào năm 2006 nhóm được lên tới gần phần biểu diễn chính, vào chủ nhật sau Guns N' RosesFuneral for a Friend.[18] Một vài chuyến lưu diễn khác gồm tour cho Metallica and Guns N' Roses,[19] chuyến lưu diễn Vans Warped, Kerrang!, và Earthday Birthday vào 28 tháng 4 năm 2007. Phần biểu diễn của họ tại Brixton Academy ở London được quay lại cho DVD đầu tiên của nhóm, The Poison: Live at Brixton.[20]

Bullet for My Valentine bị đuổi khỏi chuyến lưu diễn với Rob Zombie sau 17 show diễn. Tuck viết một lời nhắn trên diễn đàn chính thức của nhóm, nói rằng họ không được đối xử đúng cách vì các fan hâm mộ phiền nàn về giá của áo và chất lượng âm thanh.[21]

Vào tháng 6 năm 2007, Matt Tuck bị mắc chứng bệnh viêm thanh quản khiến một số lượng các show diễn bị hoãn cho đến tháng 1. Một ca phẫu thuật cắt A-mi-đan đã được sắp xếp cho Matt vào giữa tháng 7. Theo lời chỉ dẫn của bác sĩ, ban nhạc buộc phải huỷ một vài show diễn. Mặc dù không thể nói được, Matt viết rằng sớm sau khi các bác sĩ hoàn thành chữa trị, họ sẽ bắt đầu chuẩn bị cho album mới.[22]

Scream Aim Fire

Album thứ 2 của Bullet for My Valentine được thu âm tại phòng thu Sonic Ranch Studios và được sản xuất bởi Colin Richardson.[23] Album được phát hành vào 28 tháng 1 năm 2008 và vào 29 tháng 1Mỹ.[24] Matt bình luận rằng; "Sự khác biệt lớn nhất có lẽ là nhịp điệu và sự công kích. Nó sẽ có nhịp điệu nhanh hơn và sẽ công kích hơn".[25] Album được tiến vào bảng xếp hạng Billboard 200 tại vị trí số 4 với 53.000 bản sao được bán đi vào tuần đầu tiên.[3] Nhóm cũng đã hoàn thành chuyến lưu diễn Taste of ChaosBắc MỹChâu Úc vào năm 2008 với các nhóm nhạc Atreyu, Idiot Pilot, BlessthefallAvenged Sevenfold. Họ cũng biểu diễn tại Rock am RingRock im ParkDownload Festival 2008. Họ được chính thức mờ đến lễ hội Reading & Leeds vào tháng 8 năm nay. Đĩa đơn mới của họ, "Waking The Demon" đã được phát trên những đài phát sóng của Mỹ.

Vào 14 tháng 4 năm 2008 nhóm phải huỷ chuyến lưu diễn Canada để bay về nhà vì con gái của nghệ sĩ chơi Guitar bass Jason 'Jay' James bị vào bệnh viện [26]

Hiện nay, họ đang tham gia chuyến lưu diễn No Fear khắp Bắc Mỹ với nhóm Bleeding Through, Cancer BatsBlack Tide.

Họ sẽ biểu diễn trên toàn Châu Âu trong chuyến lưu diễn "European Tour of Duty" với khách mời đặc biệt là Lacuna Coil vào cuối năm nay.[27]

Phong cách

Bản mẫu:Sound sample box align left

Bullet for My Valentine đã trích dẫn rằng âm nhạc của họ được ảnh hưởng từ các ban nhạc Metallica, Annihilator, Pantera, Machine Head, Iron Maiden, Testament, Slayer, Stuck Mojo, Judas PriestMegadeth.[28] Các ban nhạc đã truyền cảm hứng cho "giọng hát, nhịp và giai điệu."[29] Nhận xét về The Poison, Scott Alisoglu của Blabbermouth.net miêu tả âm nhạc của nhóm là "có thể đoán trước được" và album "được làm để trở thành bài hát đột phá cho MTV" so sánh họ với ban nhạc người Thụy Điển In Flames. Dù vậy, Alisoglu khen ngợi những bài hát như "Tears Don't Fall" trong việc kết hợp guitar đôi, nhịp đập khoẻ, nhịp điệu nhanh, và một đoạn guitar solo bốc lửa."[14]Các thành viên của nhóm cũng nói rằng họ sẽ không thay đổi hình ảnh hay âm nhạc của họ vì bất kỳ mục đích thương mại nào. Matt bình luận rằng, "Nếu [âm nhạc của chúng tôi] không mạnh mẽ, chúng tôi quan tâm đến việc chúng nghe như thế nào hơn là kiểu tóc của chúng tôi trông ra sao."[30]Kirk Miller của báo Decibel magazine khen nhóm vì nỗ lực lớn trong cấu trúc đồng bộ của các bài hát.[31]


Các giải thưởng

Năm Giải Lễ trao giải
2004 'Best Newcomer'[32] Welsh Music Award
2005 'Best British Newcomer' Kerrang! Award 2005
2006 'Best UK single' for "Tears Don't Fall"[33] Kerrang! Award 2006
'Best British Band'[34] Metal Hammer Golden God Award

Thành viên của nhóm

Thành viên hiện tại

  • Matt Tuck – Hát chính, Guitar nhịp (1998-nay)
  • Michael "Padge" Paget – Guitar chính, Hát đệm (1998-nay)
  • Jason "Jay" James – Guitar bass, Hát (2003-nay)
  • Michael "Moose" Thomas – Trống, nhạc cụ gõ (1998-nay)

Thành viên cũ

  • Nick Crandle – Guitar bass (1998-2003)

Danh sách các đĩa nhạc

Các Album

Các EP

Các DVD

Các Đĩa đơn

Năm Tên đĩa Vị trí trên bảng xếp hạng Tên album
Bảng xếp hạng các đĩa đơn Anh[35][36][37]

Bảng xếp hạng Rock Anh Bảng xếp hạng Rock Mỹ hiện đại[15] Bảng xếp hạng Rock Mỹ[15]
2005 "4 Words (To Choke Upon)" 40 - - - The Poison
"Suffocating Under Words of Sorrow (What Can I Do)" 37 - - -
2006 "All These Things I Hate (Revolve Around Me)" 29 - 30 13
"Tears Don't Fall" 37 - 32 24
2007 "Scream Aim Fire" 34 1 26 16 Scream Aim Fire
2008 "Hearts Burst Into Fire" 66 1 - 33
"Waking the Demon" - - - 39

Liên kết ngoài

Ghi chú

  1. ^ http://www.metal-observer.com/articles.php?lid=1&sid=1&id=9117
  2. ^ http://www.bbc.co.uk/wales/music/sites/bulletformyvalentine/pages/poison_live_at_brixton.shtml
  3. ^ a b Hasty, Katie (2008-02-06). “Keys Notches Fourth Week At No. 1”. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2008. Không cho phép mã đánh dấu trong: |publisher= (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  4. ^ a b “Bullet for My Valentine biography”. bbc.co.uk. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2007.
  5. ^ “Bullet for My Valentine Interview”. Roomthirteen.com. 2005-07-08. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  6. ^ “Bullet for My Valentine”. bbc.co.uk. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2007.
  7. ^ Lukes, Daniel what?. “Screamocore takes a dump where it eats”. Decibel Magazine. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2007.
  8. ^ Joyce, Josh. “Bullet For My Valentine - Hand of Blood EP”. Zeromag.com. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2007.
  9. ^ “Chart Listing for the week of Mar 04 2006:”. Billboard.com. 2006-03-04. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  10. ^ “Bullet for My Valentine - Albums”. Billboard.com. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2007.
  11. ^ “New Bullet for My Valentine Single A 'Benchmark' For Band”. Blabbermouth.net. 2008-01-15. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  12. ^ “Bullet for My Valentine frontman says new album is 'a lot more uptempo, a lot more aggressive”. Blabbermouth.net. 2007-10-15. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  13. ^ Passantino, Dom (2005-11-01). “Bullet for My Valentine Stylus Magazine”. Stylus Magazine. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  14. ^ a b Alisoglu, Scott. “The Poison”. Blabbermouth.net.
  15. ^ a b c “Bullet for My Valentine - Singles”. Billboard.com. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007.
  16. ^ “Download Festival 2004 line-up”. Downloadfestival.co.uk. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007.
  17. ^ “Download Festival 2005 line-up”. Downloadfestival.co.uk. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007.
  18. ^ “Download Festival 2006 line-up”. Downloadfestival.co.uk. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007.
  19. ^ “Bullet for My Valentine - Matt Tuck, Vocals/Guitars”. smnews.com. 2006-04-01. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  20. ^ Arto (2006-01-03). “Bullet for My Valentine interview - Moose”. HardcoreSounds. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  21. ^ Cuộc phỏng vấn của Sirius Satellite Radio's Hard Attack với Matt Tuck và Michael Thomas. 7 thág 6 năm 2006
  22. ^ Chris (2007-06-21). “Bullet update”. bulletformyvalentine1.com. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  23. ^ Graff, Gary (2007-04-12). “Bullet for My Valentine in the thick of new album”. Billboard.com. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate=|date= (trợ giúp)
  24. ^ “Bullet for My Valentine: New Album Details Revealed”. Blabbermouth.net. 2007-11-14. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  25. ^ “Bullet for My Valentine frontman says new album is 'More commerical than the last one, were all gonna cut our hair and wear more makeup'. Blabbermouth.net. 2007-10-15. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  26. ^ “Bullet for My Valentine Cancels Seattle, Canada Dates - Apr. 14, 2008”. Blabbermouth.net. 2008-04-14. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  27. ^ http://www.bulletformyvalentine1.com/news.php
  28. ^ “Bullet for My Valentine Interview - Ultimate Guitar”. Ultimate-Guitar. 2005-10-20. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  29. ^ “Bullet for My Valentine - Confident aiming at being the next classic metal band”. metalrage.com. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2007.
  30. ^ “Bullet for My Valentine Interview”. popworld.com. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2007.
  31. ^ Miller, Kirk. “Bullet for My Valentine - The Poison”. Decibel Magazine. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2007.
  32. ^ “Welsh Music Awards 2004”. bbc.co.uk. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007.
  33. ^ “Bullet for My Valentine win Kerrang! award”. Ultimate-Guitars. 2006-08-29. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  34. ^ Mendoza, Nadia (2007-06-12). “Bullet booed at Metal Awards”. Thesun.co.uk. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  35. ^ “top40-charts - Tears Don't Fall”. top40-charts.com. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2007.
  36. ^ “top40-charts - All These Things I Hate”. top40-charts.com. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2007.
  37. ^ “top40-charts - Suffocating Under Words Of Sorrow”. top40-charts.com. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2007.