Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tị nạn”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 18: Dòng 18:


===Nam Á===
===Nam Á===
Cũng sau khiChiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Đế quốc Anh tuyên bố giải thể [[Ấn Độ thuộc Anh|thuộc địa Ấn Độ]] và chia xứ đó thành [[Ấn Độ]] và [[Hồi Quốc]] vì lý do tôn giáo. Hàng chục triệu người phải di cư: dân [[đạo Hồi]] bỏ sang Hồi Quốc và dân [[đạo Ấn]] tràn sang Ấn Độ, tổng cộng ước đoán là 10 đến 12 triệu (có thể lên đến 20 triệu) vượt biên giới năm 1947 để chọn xứ sở mới.<ref>[http://www.globalsecurity.org/military/world/war/indo-pak-partition2.htm India-Pakistan Partition]</ref>
Cũng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Đế quốc Anh tuyên bố giải thể [[Ấn Độ thuộc Anh|thuộc địa Ấn Độ]] và chia xứ đó thành [[Ấn Độ]] và [[Hồi Quốc]] vì lý do tôn giáo. Hàng chục triệu người phải di cư: dân [[đạo Hồi]] bỏ sang Hồi Quốc và dân [[đạo Ấn]] tràn sang Ấn Độ, tổng cộng ước đoán là 10 đến 12 triệu (có thể lên đến 20 triệu) vượt biên giới năm 1947 để chọn xứ sở mới.<ref>[http://www.globalsecurity.org/military/world/war/indo-pak-partition2.htm India-Pakistan Partition]</ref>


===Chiến tranh Việt Nam===
===Chiến tranh Việt Nam===
{{Xem thêm|Di dân Việt Nam sau 1975}}
{{Xem thêm|Di dân Việt Nam sau 1975}}
Hậu quả cuộc [[nội chiến]] 21 năm từ [[1954]] đến [[1975]] khi lực lượng Cộng sản [[Mặt trận giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam]] [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Bắc Việt]] chiếm được [[Việt Nam Cộng hòa]], miền Nam Việt Nam ngày [[30/4/1975]] là hàng trăm ngàn người dân Miền Nam tìm cách vượt thoát. Số đầu tiên do [[quân đội Hoa Kỳ]] cứu vớt trong [[chiến dịch Gió lốc]]. Tiếp theo là hàng loạt người tẩu thoát bằng đường biển và đường bộ suốt [[thập niên 1980]] lên hơn một triệu người tràn sang các quốc gia [[Đông Nam Á]]. Tình hình tương tự ở [[Lào]] và [[Cao Miên]] cũng mở đầu cho hàng trăm ngàn người trốn tránh chính sách cai trị áp bức của chính quyền mới, phải vượt sang [[Thái Lan]].
Hậu quả cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước ròng rã 21 năm từ [[1954]] đến [[1975]] khi lực lượng [[Mặt trận giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam]] giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam ngày [[30/4/1975]] là hàng trăm ngàn Ngụy quân Sài Gòn cùng con cháu bỏ chạy sang Mỹ. Số đầu tiên do [[quân đội Hoa Kỳ]] cứu vớt trong [[chiến dịch Gió lốc]]. Tiếp theo là hàng loạt người tẩu thoát bằng đường biển và đường bộ suốt [[thập niên 1980]] lên hơn một triệu người tràn sang các quốc gia [[Đông Nam Á]]. Tình hình tương tự ở [[Lào]] và [[Cao Miên]] cũng mở đầu cho hàng trăm ngàn người trốn tránh chính sách khoan hồng của chính quyền mới, phải vượt sang [[Thái Lan]].


==Hiện tình==
==Hiện tình==

Phiên bản lúc 11:26, ngày 10 tháng 9 năm 2016

Tỵ nạn hay tị nạn là một trường hợp phải chạy trốn qua một xứ khác, nơi khác để thoát cảnh hiểm nguy, ngược đãi, hoặc bắt bớ bởi một chính quyền cai trị độc tài ở chốn cư ngụ. Người tỵ nạn là người thực hiện hành động tỵ nạn (tránh nạn) đó.

Lịch sử

Dân tỵ nạn Nga năm 1942 trong trận Stalingrad thời Chiến tranh thế giới thứ hai

Khái niệm tỵ nạn đã có từ thời cổ đại khi người chạy trốn có thể tìm đến nơi thần quyền như ở một ngôi đền để lánh nạn mà không bị bắt. Thời Trung cổ, ở châu Âu cũng ghi nhận có một số luật lệ quy định quyền lánh nạn ở chốn tôn nghiêm thờ phụng.

Trong sử Việt thì có chép việc vua Lý Huệ Tông sau khi nhường ngôi cho con là Công chúa Chiêu Thánh và rồi nhà Lý mất ngôi về tay nhà Trần thì cựu hoàng Huệ Tông vào tu ở chùa Chân Giáo để tránh sự phiền nhiễu chính trị. Tuy không bị bắt, Huệ Tông cũng bị Trần Thủ Độ làm áp lực tinh thần và phải treo cổ tự vẫn, hưởng dương 33 tuổi.

Qua nhiều thế kỷ, lịch sử từng ghi những đợt di dân để lánh nạn như vào năm 1685 ở PhápSắc lệnh Fontainebleau (Édit de Fontainebleau) khi vua Louis XIV xuống chiếu cấm đạo Tin Lành khiến hàng trăm nghìn giáo dân Huguenot phải bỏ quê hương trốn sang các nước Anh, Thụy Sĩ, Hà Lan, Đức, v.v. Ở Đông Âu thì có những đợt cấm đạo Do Thái làm hơn hai triệu dân đạo ở Nga phải bỏ chạy vào những thập niên cuối thế kỷ 19.

Tổ chức đầu tiên lập ra để đối phó với vấn đề tỵ nạn là Cao ủy Tỵ nạn của Hội Quốc Liên vào năm 1921. Cuộc nội chiến ở Nga ngay sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917 đã tạo ra khoảng một triệu rưởi dân Nga bỏ nước để tránh chính quyền Cộng sản. Năm 1923 thì Cao ủy lãnh thêm nhiệm vụ cứu trợ dân Armenia ở Tiểu Á trong cuộc thanh trừng diệt chủng của Thổ Nhĩ Kỳ.

Chiến tranh thế giới thứ hai

Chiến tranh thế giới thứ hai đánh dấu một bước rẽ với con số dân tỵ nạn lên cao và ảnh hưởng một vùng rộng lớn. Năm 1943 phe Đồng Minh cho thành lập Quyền vụ Cứu trợ và Phục hồi Liên quốc (United Nations Relief and Rehabilitation Administration, UNRAA) để giúp ổn định những khu vực mới được giải phóng khỏi vòng kiểm soát của phe Trục (đệ nhị thế chiến). Công tác này bao gồm việc định cư hơn bảy triệu dân sơ tán nay cần được hồi hương. Số khoảng một triệu người không muốn hồi hương thì cần trại tạm trú.

Hội nghị Potsdam năm 1945 cũng hoạch định lại biên giới ở Âu châu khiến 15 triệu dân Đức bỗng nhiên thuộc thẩm quyền của nhà chức trách mới của Ba Lan, Tiệp Khắc, và Hung Gia Lợi. Trong khi đó Hội nghị Yalta có ghi điều kiện buộc hồi hương hàng triệu dân Nga về Liên Xô.[1]

Nam Á

Cũng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Đế quốc Anh tuyên bố giải thể thuộc địa Ấn Độ và chia xứ đó thành Ấn ĐộHồi Quốc vì lý do tôn giáo. Hàng chục triệu người phải di cư: dân đạo Hồi bỏ sang Hồi Quốc và dân đạo Ấn tràn sang Ấn Độ, tổng cộng ước đoán là 10 đến 12 triệu (có thể lên đến 20 triệu) vượt biên giới năm 1947 để chọn xứ sở mới.[2]

Chiến tranh Việt Nam

Hậu quả cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước ròng rã 21 năm từ 1954 đến 1975 khi lực lượng Mặt trận giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam ngày 30/4/1975 là hàng trăm ngàn Ngụy quân Sài Gòn cùng con cháu bỏ chạy sang Mỹ. Số đầu tiên do quân đội Hoa Kỳ cứu vớt trong chiến dịch Gió lốc. Tiếp theo là hàng loạt người tẩu thoát bằng đường biển và đường bộ suốt thập niên 1980 lên hơn một triệu người tràn sang các quốc gia Đông Nam Á. Tình hình tương tự ở LàoCao Miên cũng mở đầu cho hàng trăm ngàn người trốn tránh chính sách khoan hồng của chính quyền mới, phải vượt sang Thái Lan.

Hiện tình

Dân làng chạy trốn chiến tranh tại Bắc Kivu, Congo năm 2008

Hàng năm vào ngày Tị nạn Thế giới, Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn UNHCR xuất bản một báo cáo hàng năm về số lượng người tị nạnngười tản cư trên toàn thế giới đã bị buộc phải rời bỏ nhà cửa do chiến tranh, xung đột và khủng bố. Theo báo cáo năm 2014, vào thời điểm cuối năm 2013 có hơn 51 triệu người đang chạy trốn hoặc bị trục xuất, trong đó có hơn 33 triệu người đàn ông, phụ nữ và trẻ em di tản trong khu vực các quốc gia riêng của họ ("người tản cư nội địa"). Như vậy, số lượng người tị nạn đã đạt mức cao nhất kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Sự gia tăng với hơn sáu triệu người so với năm trước chủ yếu là do cuộc chiến ở Syria. Tại châu Phi, số người tị nạn, di tản và bị trục xuất cũng tăng đáng kể, đặc biệt là ở Cộng hòa Trung PhiNam Sudan. Quốc gia đang thu nhận số người chạy trốn nhiều nhất là Pakistan, IranLi-băng.[3]

Xem thêm

Chú thích