Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Văn Minh (trung tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:27.5587556
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
{{Tiểu sử quân nhân
{{Tiểu sử quân nhân
| tên= Nguyễn Văn Minh
| tên= '''NGUYỄN VĂN MINH
| hình=
| hình=
| ngày sinh= tháng 2-1929
| ngày sinh= '''1929
| ngày mất= 24-11-2006
| ngày mất= '''{{ngày mất|2006|11|24}} (77 tuổi)
| nơi sinh= Sài Gòn, VN
| nơi sinh= '''[[Sài Gòn]], [[Việt Nam]]
| nơi mất= Hoa Kỳ
| nơi mất= '''[[California]], [[Hoa Kỳ]]
| thuộc= [[Hình: GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| phục vụ= '''[[Hình: Flag of South Vietnam.svg|40px]] [[Việt Nam Cộng hòa]]
| thuộc= '''[[Hình: GOFVNflag.jpg|36px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
| năm phục vụ= 1951-1975
| năm phục vụ= '''1951-1975
| cấp bậc= [[Hình: US-O9 insignia.svg|35px]] [[Trung tướng]]
| cấp bậc= '''[[Hình: US-O9 insignia.svg|48px]] [[Trung tướng]]
| đơn vị= Sư đoàn 21 bộ binh<br/>Quân đoàn III VNCH<br/>Trường Bộ binh Thủ Đức<br/>Biệt khu Thủ Đô
| đơn vị= '''-[[Sư đoàn 21 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 21 Bộ binh]]<br/>[[Hình: ARVN Capital Military Zone Unit SSI.svg|20px]] [[Biệt khu Thủ đô]]<ref> Hai lần Tư lệnh Biệt nhu Thủ đô. Lần tứ nhất (1968-1971), lần thứ hai (3/1975)</ref><br/>[[Hình: QD III VNCH.jpg|20px]] [[Quân đoàn III (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn III và QK 3]]<br/>[[Hình: Cư an tư nguy.svg|20px]] [[Trường Bộ binh Thủ Đức|Võ khoa Thủ Đức]]
| chỉ huy= Quân đội Quốc gia<br/>Quân lực Việt Nam Cộng hòa
| chỉ huy= '''[[Hình: Flag of the Vietnamese National Army.svg|26px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]]<br/>[[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|20px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
| công việc khác= Tỉnh trưởng<br/>Thanh tra QLVNCH
| tham chiến= '''[[Chiến tranh Việt Nam]]
| công việc khác= '''-[[Huyện (Việt Nam)|Quận trưởng]]<br/>-[[Tỉnh (Việt Nam Cộng hòa)|Tỉnh trưởng]]<br/>[[Hình: ARVN Joint General Staff Insignia.svg|18px]] [[Tổng thanh tra Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Tổng Thanh tra Q.Lực]]
}}
}}


'''Nguyễn Văn Minh''' (1929-2006) nguyên là tướng lĩnh bộ binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], cấp bậc [[Trung tướng]]. Xuất thân từ trường [[trường Võ bị Liên quân Đà Lạt|Võ bị Liên quân]]. Ông nguyên lệnh Quân đoàn III & Quân khu 3 chiến thuật, 2 lần Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, một địa bàn mà trong đó tất cả các cơ quan đầu não của chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa đều tập trung tại đây. Bấy giờ, giới quân nhân đặt cho ông biệt danh là "Minh đờn" do khả năng trình diễn bằng guitare của ông để phân biệt với một số tướng lĩnh khác cùng tên như tướng [[Dương Văn Minh]] (biệt danh "Minh lớn"), tướng [[Trần Văn Minh (lục quân)|Trần Văn Minh]] Lục quân (biệt danh "Minh nhỏ") và tướng [[Trần Văn Minh (không quân)|Trần Văn Minh]] Không quân (biệt danh "Minh đen").
'''Nguyễn Văn Minh''' (1929-2006) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], cấp bậc [[Trung tướng]]. Ông xuất thân từ những khóa đầu tại trường [[Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt|Võ bị Liên quân]] được mở ra ở Nam Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Trong thời gian tại ngũ, ngoài chuyên môn là chỉ huy các đơn vị Bộ binh, ông cũng được biệt phái qua lĩnh vực Hành chính Quân sự làm Quân trưởng, Tỉnh trưởng. Về sau ông được đảm trách Tư lệnh một Quân đoàn trọng yếu và 2 lần Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, một địa bàn mà trong đó tất cả các cơ quan đầu não của Chính quyền và Quân đội Việt Nam Cộng hòa đều tập trung tại đây. Bấy giờ, giới quân nhân đặt cho ông biệt danh là "Minh đờn" do khả năng trình diễn đàn guitare.<ref> Trước khi gia nhập Quân đội, tướng '''Minh''' là một nhạc công Guitare trong ban nhạc đệm đàn cho các phòng trà ở Sài Gòn (bấy giờ có một thành viên nữa cùng trong ban nhạc với ông, sau này cũng là tướng lĩnh trong Quân lực VNCH, đó là tướng [[Lê Minh Đảo]]). Do đó nên ông có biệt danh là ""Minh Đờn", đồng thời cúng để phân biệt với một số tướng lĩnh khác cùng tên như: tướng [[Dương Văn Minh]] (biệt danh "Minh lớn"), tướng [[Trần Văn Minh (lục quân)|Trần Văn Minh]] Lục quân (biệt danh "Minh nhỏ") và tướng [[Trần Văn Minh (không quân)|Trần Văn Minh]] Không quân (biệt danh "Minh đen").</ref>


==Thân thếbước đầu binh nghiệp==
==Tiểu sửBinh nghiệp==
Ông sinh vào tháng 2 năm 1929 trong một gia đình thương nhân khá giả tại [[Sài Gòn]], miền Nam Việt Nam. Thời niên thiếu, ông học tại Sài Gòn. Năm 1948, ông tốt nghiệp Trung học phổ thông chương trình Pháp với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II). Sau khi rời học đường, ông làm nhạc công trong các ban nhạc, đệm Guitar cho các phòng trà ở Sài Gòn một thời gian trước khi gia nhập Quân đội.
Ông sinh vào tháng 2 năm 1929 tại [[Sài Gòn]] trong một gia đình khá giả. Ông đã tốt nghiệp Trung học Đệ nhị cấp.


===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Năm 1951, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]]. Ông được trúng tuyển theo học khoá 4 Lý Thường Kiệt tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt khai giảng ngày 1 tháng 4 năm 1951. Ngày 1 tháng 12 năm 1951 tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]] hiện dịch, ông được bổ nhiệm làm Trung đội trưởng Trung đội bộ binh thuộc Tiểu đoàn khinh quân Việt Nam. Năm 1953, ông được thăng cấp [[Trung úy]], giữ chức vụ Đại đội trưởng. Năm 1954, được thăng cấp [[Đại úy]] tại nhiệm.
Tháng 3 năm 1951, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]]. Được trúng tuyển theo học khóa 4 Lý Thường Kiệt tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 4 năm 1951. Ngày 1 tháng 12 năm 1951 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]] hiện dịch. Ra trường ông được điều về một đơn vị Bộ binh làm Trung đội trưởng thuộc Tiểu đoàn Khinh quân Việt Nam. Năm 1953, ông được thăng cấp [[Trung úy]], giữ chức vụ Đại đội trưởng. Năm 1954, được thăng cấp [[Đại úy]] tại nhiệm.


===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===
Tháng 8 năm 1955, ông được thăng cấp [[Thiếu ]], được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 61 Việt Nam, kiêm Quận trưởng [[Đức Hòa]], tỉnh Chợ Lớn. Sau cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiếnTổng thống Việt Nam Cộng hòa cuối năm 1955, ông được đề cử chức Tỉnh trưởng [[Sa Đéc]] sau khi bàn giao quận Đức Hoa lại cho Thiếu tá [[Đỗ Kiến Nhiễu]].<ref>Văn Nguyên Dưỡng, ''Tướng Lê Văn Hưng Và Những Sự Thực Ở Chiến Trường An Lộc Trong Mùa Hè 1972''.</ref> Cuối năm 1959, ông được thăng cấp [[Trung tá]] tại nhiệm.
Năm 1955, sau khi Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]] cải danh Quân đội Quốc gia thành [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]] chuyển biên chế sang cơ cấu mới ông được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 61 Việt Nam. Tháng 11 năm 1956, sau cuộc Trưng cầu Dân ý, Thủ tương Diệm lên làm Tổng thống, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]]được giao kiêm chức vụ Quận trưởng quận [[Đức Hòa]], tỉnh Chợ Lớn. Năm 1959, ông được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng tỉnh [[An Giang]] sau khi bàn giao quận Đức Hoa lại cho Thiếu tá [[Đỗ Kiến Nhiễu]].<ref>Văn Nguyên Dưỡng, ''Tướng Lê Văn Hưng Và Những Sự Thực Ở Chiến Trường An Lộc Trong Mùa Hè 1972''.</ref> Cuối năm 1959, ông được thăng cấp [[Trung tá]] tại nhiệm.


===Quan lộ hạnh thông===
Khi [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960|đảo chính 1960]] nổ ra, ông đã có những động thái ủng hộ phe đảo chính. Vì vậy ông bị thuyên chuyển đi làm Tỉnh trưởng An Giang.<ref name="Dale Andrade 1995. pp 374-377">Dẫn theo Dale Andrade, ''Trial By Fire'', 1995. pp 374-377</ref>
Khi cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|đảo chính 1 tháng 11 năm 1963]] nổ ra, ông được các tướng lĩnh chỉ huy đảo chính chỉ định làm Chỉ huy trưởng Lữ đoàn B Cà Mau thuộc [[Sư đoàn 21 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 21 Bộ binh]] sau khi bàn giao tỉnh An Giang lại cho Thiếu tá '''Châu Văn Tiên'''. Ngày 4 tháng 11 ông được đặc cách thăng cấp [[Đại tá]].


Trung tuần tháng 3 năm 1965, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh thay thế Thiếu tướng [[Đặng Văn Quang]].<ref> Thiếu tướng '''Quang''' được đề bạt lên làm Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng 4 Chiến thuật</ref> Ngày kỷ niệm lần thứ 2 Cách mạng 1 tháng 11 thành công (năm 1965), ông được thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm. Tháng 1 năm 1968, ông được thăng cấp [[Thiếu tướng]] tại nhiệm.<ref> Thời gian ông giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn, Sư đoàn 21 được cố vấn Mỹ nhận xét ''"do sự lãnh đạo và tài khéo của Tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Văn Minh. Sư đoàn này là một lực lượng chiến đấu dũng mãnh, và được chỉ huy cách đầy đủ."''</ref>
==Quan lộ hạnh thông==
Khi cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|đảo chính 1 tháng 11 năm 1963]] nổ ra, ông được các tướng lĩnh chỉ huy đảo chính chỉ định làm Chỉ huy trưởng Lữ đoàn B Cà Mau thuộc [[Sư đoàn 21 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 21 Bộ binh]]. Ngày [[2 tháng 11]] ông được đặc cách thăng cấp [[Đại tá]].


Đầu tháng 6 năm 1968, bàn giao Sư đoàn 21 lại cho Chuẩn tướng [[Nguyễn Vĩnh Nghi]], ông được chuyển về Trung ương giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô thay Đại tá Nguyễn Văn Giám (bị thương trong vụ trực thăng Mỹ bắn lầm tại Chợ Lớn vào ngày 2 tháng 6 năm 1968).
Trung tuần tháng 3 năm 1965, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh. Ngày [[1 tháng 11]] cùng năm, thăng cấp [[Chuẩn tướng]]. Tháng 1 năm 1968, thăng cấp [[Thiếu tướng]] tại nhiệm. Thời gian ông giữ chức Tư lệnh Sư đoàn, Sư đoàn 21 được cố vấn Mỹ nhận xét ''"do sự lãnh đạo và tài khéo của Tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Văn Minh. Sư đoàn này là một lực lượng chiến đấu dũng mãnh, và được chỉ huy cách đầy đủ."''<ref name="Dale Andrade 1995. pp 374-377"/>


Thượng tuần tháng giêng năm 1971, bàn giao Biệt khu Thủ đô lại cho Phó Đô đốc [[Chung Tấn Cang]]. Hạ tuần tháng 2 ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III Quân khu 3 thay thế Trung tướng [[Đỗ Cao Trí]] bị tử nạn trực thăng ngày 23 tháng 2 năm 1971 tại Tây Ninh.<ref> Tuy nhiên, trong vai trò Tư lệnh Quân đoàn, ông bị nhận xét là ''"thái độ lúng túng trong chức vụ chỉ huy cao cấp và trí hiểu biết hạn hẹp về chiến lược"</ref>
Tháng 6 năm 1968, ông được thuyên chuyển về Thủ Đô nhận chức vụ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô thay Đại tá Nguyễn Văn Giám (bị thương trong vụ trực thăng Mỹ bắn lầm tại Chợ Lớn vào ngày [[2 tháng 6]] năm 1968).


Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp [[Trung tướng]] tại nhiệm. Ngày 19 tháng 6 năm 1973, ông được cử làm Tổng Chỉ huy cuộc duyệt binh tại Quảng trường Thống nhất nhân kỷ niệm lần thứ 7 ngày Quân lực. Cuối tháng 10 năm cùng năm, ông được chỉ định giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Trường Bộ binh Thủ Đức, hoán chuyển nhiệm vụ với Trung tướng [[Phạm Quốc Thuần]].<ref> Tướng '''Thuần''' đang là Chỉ huy trưởng trường Bộ binh Thủ Đức, thay thế tướng '''Minh''' giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III).</ref> ngày Quốc khánh 1 tháng 11 năm 1974, ông được chuyển nhiệm vụ về Bộ Tổng Tham mưu làm [[Tổng thanh tra Quân lực Việt Nam Cộng hòa]].
Thượng tuần tháng giêng năm 1971, bàn giao Biệt khu Thủ đô lại cho Phó Đô đốc [[Chung Tấn Cang]]. Hạ tuần tháng 2 ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III & Quân khu 3 thay thế Trung tướng [[Đỗ Cao Trí]] bị tử nạn trực thăng ngày [[23 tháng 2]] năm 1971 tại Tây Ninh. Tuy nhiên, trong vai trò Tư lệnh Quân đoàn, ông bị nhận xét là ''"thái độ lúng túng trong chức vụ chỉ huy cao cấp và trí hiểu biết hạn hẹp về chiến lược"''<ref name="Dale Andrade 1995. pp 374-377"/>


==1975==
Ngày [[1 tháng 11]] năm 1972, ông được thăng cấp [[Trung tướng]]. Cuối tháng 10 năm 1973, ông được chuyển công tác nhận chức Chỉ huy trưởng Trường Bộ binh Thủ Đức sau khi bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng trường Bộ binh lại cho Trung tướng [[Nguyễn Vĩnh Nghi]]. Một năm sau, ông được chuyển nhiệm vụ sang làm [[Tổng thanh tra Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Tổng Thanh tra QLVNCH]].
===Cuộc sống cuối đời===
Ngày 24 tháng 3 năm 1975, ông được tái bổ nhiệm làm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô kiêm Tổng trấn Đô Thành Sài Gòn, Chợ Lớn thay thế Phó Đô đốc [[Chung Tấn Cang]]. Tuy nhiên, đến ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông đào nhiệm và di tản khỏi Việt Nam sang Hoa Kỳ.<ref>[[Phạm Bá Hoa]], ''Ngày cuối từ Tổng tham mưu đến Biệt khu thủ đô''.</ref>.


Sau khi đến Hoa Kỳ, ông định cư tại Thành phố San Diego thuộc Tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Ngày [[24 tháng 3]] năm 1975, ông được tái bổ nhiệm làm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô kiêm Tổng trấn Đô Thành Sài Gòn, Chợ Lớn. Tuy nhiên, đến ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông đào nhiệm và di tản sang Hoa Kỳ.<ref>[[Phạm Bá Hoa]], ''Ngày cuối từ Tổng tham mưu đến Biệt khu thủ đô''.</ref>.


Ngày 24 tháng 11 năm 2006, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 77 tuổi.
==Cuộc sống cuối đời==
Sau khi đến Hoa Kỳ, ông định cư tại San Diego California, Hoa Kỳ.

Ngày [[24 tháng 11]] năm 2006, ông từ trần tại nơi định cư, thọ 77 tuổi.


==Gia đình==
==Gia đình==
Ông lập gia đình với bà Phan Thị Mỹ Dung. Ông bà có với nhau 6 người con gồm 4 trai, 2 gái.
* Phan Thị Mỹ Dung - Ông bà có 6 người con gồm 4 trai, 2 gái.


==Chú thích==
==Chú thích==
Dòng 50: Dòng 53:


==Tham khảo==
==Tham khảo==
* {{chú thích sách |author=Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy |year=2011 |title=Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa |publisher=Hương Quê |isbn=978-0-9852-1820-1}} {{cần số trang}}
* Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). ''Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa.'' Trang 117-118

{{Thời gian sống|1929|2006}}


[[Thể loại:Sinh 1929]]
[[Thể loại:Mất 2006]]
[[Thể loại:Trung tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Trung tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Tỉnh trưởng Sa Đéc]]
[[Thể loại:Tỉnh trưởng An Giang]]
[[Thể loại:Tỉnh trưởng An Giang]]
[[Thể loại:Người Sài Gòn]]
[[Thể loại:Người Sài Gòn]]
[[Thể loại:Nhân vật có thể còn sống]]
[[Thể loại:Sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Quân nhân Việt Nam]]
[[Thể loại:Người Việt Nam]]

Phiên bản lúc 00:01, ngày 26 tháng 10 năm 2016

NGUYỄN VĂN MINH
Sinh1929
Sài Gòn, Việt Nam
Mất(2006-11-24)24 tháng 11, 2006 (77 tuổi)
California, Hoa Kỳ
Thuộc Quân lực VNCH
Quân chủng Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1951-1975
Quân hàm Trung tướng
Đơn vị-Sư đoàn 21 Bộ binh
Biệt khu Thủ đô[1]
Quân đoàn III và QK 3
Võ khoa Thủ Đức
Chỉ huy Quân đội Quốc gia
Quân lực VNCH
Tham chiếnChiến tranh Việt Nam
Công việc khác-Quận trưởng
-Tỉnh trưởng
Tổng Thanh tra Q.Lực

Nguyễn Văn Minh (1929-2006) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tại trường Võ bị Liên quân được mở ra ở Nam Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Trong thời gian tại ngũ, ngoài chuyên môn là chỉ huy các đơn vị Bộ binh, ông cũng được biệt phái qua lĩnh vực Hành chính Quân sự làm Quân trưởng, Tỉnh trưởng. Về sau ông được đảm trách Tư lệnh một Quân đoàn trọng yếu và 2 lần Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, một địa bàn mà trong đó tất cả các cơ quan đầu não của Chính quyền và Quân đội Việt Nam Cộng hòa đều tập trung tại đây. Bấy giờ, giới quân nhân đặt cho ông biệt danh là "Minh đờn" do khả năng trình diễn đàn guitare.[2]

Tiểu sử và Binh nghiệp

Ông sinh vào tháng 2 năm 1929 trong một gia đình thương nhân khá giả tại Sài Gòn, miền Nam Việt Nam. Thời niên thiếu, ông học tại Sài Gòn. Năm 1948, ông tốt nghiệp Trung học phổ thông chương trình Pháp với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II). Sau khi rời học đường, ông làm nhạc công trong các ban nhạc, đệm Guitar cho các phòng trà ở Sài Gòn một thời gian trước khi gia nhập Quân đội.

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Tháng 3 năm 1951, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia. Được trúng tuyển theo học khóa 4 Lý Thường Kiệt tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 4 năm 1951. Ngày 1 tháng 12 năm 1951 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường ông được điều về một đơn vị Bộ binh làm Trung đội trưởng thuộc Tiểu đoàn Khinh quân Việt Nam. Năm 1953, ông được thăng cấp Trung úy, giữ chức vụ Đại đội trưởng. Năm 1954, được thăng cấp Đại úy tại nhiệm.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Năm 1955, sau khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm cải danh Quân đội Quốc gia thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa chuyển biên chế sang cơ cấu mới ông được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 61 Việt Nam. Tháng 11 năm 1956, sau cuộc Trưng cầu Dân ý, Thủ tương Diệm lên làm Tổng thống, ông được thăng cấp Thiếu tá và được giao kiêm chức vụ Quận trưởng quận Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn. Năm 1959, ông được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng tỉnh An Giang sau khi bàn giao quận Đức Hoa lại cho Thiếu tá Đỗ Kiến Nhiễu.[3] Cuối năm 1959, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm.

Quan lộ hạnh thông

Khi cuộc đảo chính 1 tháng 11 năm 1963 nổ ra, ông được các tướng lĩnh chỉ huy đảo chính chỉ định làm Chỉ huy trưởng Lữ đoàn B Cà Mau thuộc Sư đoàn 21 Bộ binh sau khi bàn giao tỉnh An Giang lại cho Thiếu tá Châu Văn Tiên. Ngày 4 tháng 11 ông được đặc cách thăng cấp Đại tá.

Trung tuần tháng 3 năm 1965, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Đặng Văn Quang.[4] Ngày kỷ niệm lần thứ 2 Cách mạng 1 tháng 11 thành công (năm 1965), ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Tháng 1 năm 1968, ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm.[5]

Đầu tháng 6 năm 1968, bàn giao Sư đoàn 21 lại cho Chuẩn tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, ông được chuyển về Trung ương giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô thay Đại tá Nguyễn Văn Giám (bị thương trong vụ trực thăng Mỹ bắn lầm tại Chợ Lớn vào ngày 2 tháng 6 năm 1968).

Thượng tuần tháng giêng năm 1971, bàn giao Biệt khu Thủ đô lại cho Phó Đô đốc Chung Tấn Cang. Hạ tuần tháng 2 ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III và Quân khu 3 thay thế Trung tướng Đỗ Cao Trí bị tử nạn trực thăng ngày 23 tháng 2 năm 1971 tại Tây Ninh.[6]

Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Trung tướng tại nhiệm. Ngày 19 tháng 6 năm 1973, ông được cử làm Tổng Chỉ huy cuộc duyệt binh tại Quảng trường Thống nhất nhân kỷ niệm lần thứ 7 ngày Quân lực. Cuối tháng 10 năm cùng năm, ông được chỉ định giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Trường Bộ binh Thủ Đức, hoán chuyển nhiệm vụ với Trung tướng Phạm Quốc Thuần.[7] ngày Quốc khánh 1 tháng 11 năm 1974, ông được chuyển nhiệm vụ về Bộ Tổng Tham mưu làm Tổng thanh tra Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

1975

Cuộc sống cuối đời

Ngày 24 tháng 3 năm 1975, ông được tái bổ nhiệm làm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô kiêm Tổng trấn Đô Thành Sài Gòn, Chợ Lớn thay thế Phó Đô đốc Chung Tấn Cang. Tuy nhiên, đến ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông đào nhiệm và di tản khỏi Việt Nam sang Hoa Kỳ.[8].

Sau khi đến Hoa Kỳ, ông định cư tại Thành phố San Diego thuộc Tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Ngày 24 tháng 11 năm 2006, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 77 tuổi.

Gia đình

  • Bà Phan Thị Mỹ Dung - Ông bà có 6 người con gồm 4 trai, 2 gái.

Chú thích

  1. ^ Hai lần Tư lệnh Biệt nhu Thủ đô. Lần tứ nhất (1968-1971), lần thứ hai (3/1975)
  2. ^ Trước khi gia nhập Quân đội, tướng Minh là một nhạc công Guitare trong ban nhạc đệm đàn cho các phòng trà ở Sài Gòn (bấy giờ có một thành viên nữa cùng trong ban nhạc với ông, sau này cũng là tướng lĩnh trong Quân lực VNCH, đó là tướng Lê Minh Đảo). Do đó nên ông có biệt danh là ""Minh Đờn", đồng thời cúng để phân biệt với một số tướng lĩnh khác cùng tên như: tướng Dương Văn Minh (biệt danh "Minh lớn"), tướng Trần Văn Minh Lục quân (biệt danh "Minh nhỏ") và tướng Trần Văn Minh Không quân (biệt danh "Minh đen").
  3. ^ Văn Nguyên Dưỡng, Tướng Lê Văn Hưng Và Những Sự Thực Ở Chiến Trường An Lộc Trong Mùa Hè 1972.
  4. ^ Thiếu tướng Quang được đề bạt lên làm Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng 4 Chiến thuật
  5. ^ Thời gian ông giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn, Sư đoàn 21 được cố vấn Mỹ nhận xét "do sự lãnh đạo và tài khéo của Tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Văn Minh. Sư đoàn này là một lực lượng chiến đấu dũng mãnh, và được chỉ huy cách đầy đủ."
  6. ^ Tuy nhiên, trong vai trò Tư lệnh Quân đoàn, ông bị nhận xét là "thái độ lúng túng trong chức vụ chỉ huy cao cấp và trí hiểu biết hạn hẹp về chiến lược"
  7. ^ Tướng Thuần đang là Chỉ huy trưởng trường Bộ binh Thủ Đức, thay thế tướng Minh giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III).
  8. ^ Phạm Bá Hoa, Ngày cuối từ Tổng tham mưu đến Biệt khu thủ đô.

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trang 117-118