Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Khuang Aphaiwong”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi qua ứng dụng di động
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi qua ứng dụng di động
Dòng 39: Dòng 39:
===nhiệm kỳ đầu tiên làm Thủ tướng===
===nhiệm kỳ đầu tiên làm Thủ tướng===
Vào ngày 01 Tháng Tám năm 1944, Quốc hội bầu ông Thủ tướng Chính phủ, sau khi kế hoạch Phibun để di chuyển thủ đô tới Phetchabun và để tạo ra các công viên Phutthamonthon không nhận được đủ chính. Ông là một ứng cử viên thỏa hiệp, đứng giữa những người ủng hộ Phibun và di chuyển miễn phí Thai đối lập.<ref>{{Cite book |author=Thak Chaloemtiarana |title=Thailand: The Politics of Despotic Paternalism |year=2007 |page=16}}</ref>Bề ngoài ông đã hợp tác với Nhật Bản, người đã dựa trên sự thật chiếm đóng Thái Lan trong chiến tranh. Đồng thời, ông che chắn cho Thái miễn phí người tích cực phối hợp với các đồng minh tiến. Sau sự rút lui của Nhật Bản, ông đã từ chức ngày 31 tháng tám năm 1945, để dọn đường cho một chính quyền mới của lực lượng Thái miễn phí.
Vào ngày 01 Tháng Tám năm 1944, Quốc hội bầu ông Thủ tướng Chính phủ, sau khi kế hoạch Phibun để di chuyển thủ đô tới Phetchabun và để tạo ra các công viên Phutthamonthon không nhận được đủ chính. Ông là một ứng cử viên thỏa hiệp, đứng giữa những người ủng hộ Phibun và di chuyển miễn phí Thai đối lập.<ref>{{Cite book |author=Thak Chaloemtiarana |title=Thailand: The Politics of Despotic Paternalism |year=2007 |page=16}}</ref>Bề ngoài ông đã hợp tác với Nhật Bản, người đã dựa trên sự thật chiếm đóng Thái Lan trong chiến tranh. Đồng thời, ông che chắn cho Thái miễn phí người tích cực phối hợp với các đồng minh tiến. Sau sự rút lui của Nhật Bản, ông đã từ chức ngày 31 tháng tám năm 1945, để dọn đường cho một chính quyền mới của lực lượng Thái miễn phí.

===Thứ hai hạn như Thủ tướng===
Năm 1946 ông là một trong những sáng lập viên của Đảng Dân chủ bảo thủ, và trở thành lãnh đạo đầu tiên của nó. Các cuộc bầu cử quốc gia thứ tư trên 06 Tháng Một năm 1946 đã giành chiến thắng của Đảng Dân chủ, mà lại cho ông một nhiệm kỳ thứ hai làm thủ tướng bắt đầu vào ngày 31 tháng Giêng. Chỉ 45 ngày sau đó, vào ngày 24 tháng Ba, chính phủ của ông bị mất một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm tại Quốc hội và ông đã từ chức.


== Reference ==
== Reference ==

Phiên bản lúc 14:40, ngày 2 tháng 3 năm 2017

Khuang Aphaiwong
Luang Kowit-aphaiwong
Chức vụ
Nhiệm kỳ1 August 1944 – 31 August 1945
Tiền nhiệmPlaek Phibunsongkhram
Kế nhiệmTawee Boonyaket
Nhiệm kỳ31 January 1946 – 24 March 1946
Tiền nhiệmSeni Pramoj
Kế nhiệmPridi Banomyong
Nhiệm kỳ10 November 1947 – 8 April 1948
Tiền nhiệmThawan Thamrongnawasawat
Kế nhiệmPlaek Phibunsongkhram
Thông tin chung
Quốc tịchThai
Sinh(1902-05-17)17 tháng 5 năm 1902
Phra Tabong Province, Siam, (Now Battambang, Cambodia)
Mất15 tháng 3 năm 1968(1968-03-15) (65 tuổi)
Tôn giáoTheravada Buddhism
Đảng chính trịDemocrat Party

Khuang Aphaiwong (17 tháng 5 1902 - 15 tháng 3 năm 1968; tiếng Thái: ควง อภัยวงศ์, cũng viết Kuang, Abhaiwong, hoặc Abhaiwongse) đã ba lần so với Thủ tướng Thái Lan: từ tháng Tám năm 1944 đến năm 1945, từ tháng Giêng đến tháng 5 năm 1946, và từ tháng năm 1947 đến tháng 4 năm 1948.

Cuộc đời và sự nghiệp

Khuang sinh tại Battambang (nay ở Campuchia), một con trai của thống đốc Xiêm Chao Phraya Abhayabhubet. Các Aphaiwongs là của hoàng tuổi dòng Khmer. Khuang học ở trường Debsirin và Assumption đại học, Bangkok, sau đó học tập kỹ thuật tại Ecole Centrale de Lyon ở Pháp. Ngày trở về Thái Lan, ông đã làm việc trong các bộ phận điện báo, cuối cùng trở thành giám đốc của Sở. Điều này mang lại cho ông danh hiệu phong kiến ​​Luang Kowit-aphaiwong. Ông kết hôn với Lekha Kunadilok (Goone-Tilleke), con gái của Tích Lan sinh ra luật sư William Alfred Goone-Tilleke, người sáng lập của pháp luật firm Tilleke & Gibbins.[1]

Người khởi xướng sự thay đổi chế độ và bộ trưởng

Khuang là một thành viên của phe dân sự của Khana Ratsadon ( "Đảng nhân dân"), nhóm người đã thúc đẩy cuộc cách mạng của Xiêm năm 1932, dẫn đến một sự thay đổi chế độ từ tuyệt đối chế độ quân chủ lập hiến. Sau đó, ông từng là bộ trưởng mà không cần danh mục đầu tư trong tủ của Phraya Phahon PhonphayuhasenaPlaek Phibunsongkhram (Phibun). Trong Thế chiến II, ông đã đưa một lớn và gia nhập đội theking của. Như vậy ông là ở phần đầu của sứ mệnh Battambangwhich trong tháng 7 năm 1941 nắm quyền kiểm soát lãnh thổ Campuchia chiếm đóng trong cuộc chiến tranh Pháp-Thái Lan, được đổi tên thành tỉnh Phra Tabong. Cha của ông đã được thống đốc của một phần của khu vực này trước khi nó được nhượng lại cho Pháp năm 1907. Sau đó ông trở thành bộ trưởng thương mại và truyền thông

nhiệm kỳ đầu tiên làm Thủ tướng

Vào ngày 01 Tháng Tám năm 1944, Quốc hội bầu ông Thủ tướng Chính phủ, sau khi kế hoạch Phibun để di chuyển thủ đô tới Phetchabun và để tạo ra các công viên Phutthamonthon không nhận được đủ chính. Ông là một ứng cử viên thỏa hiệp, đứng giữa những người ủng hộ Phibun và di chuyển miễn phí Thai đối lập.[2]Bề ngoài ông đã hợp tác với Nhật Bản, người đã dựa trên sự thật chiếm đóng Thái Lan trong chiến tranh. Đồng thời, ông che chắn cho Thái miễn phí người tích cực phối hợp với các đồng minh tiến. Sau sự rút lui của Nhật Bản, ông đã từ chức ngày 31 tháng tám năm 1945, để dọn đường cho một chính quyền mới của lực lượng Thái miễn phí.

Thứ hai hạn như Thủ tướng

Năm 1946 ông là một trong những sáng lập viên của Đảng Dân chủ bảo thủ, và trở thành lãnh đạo đầu tiên của nó. Các cuộc bầu cử quốc gia thứ tư trên 06 Tháng Một năm 1946 đã giành chiến thắng của Đảng Dân chủ, mà lại cho ông một nhiệm kỳ thứ hai làm thủ tướng bắt đầu vào ngày 31 tháng Giêng. Chỉ 45 ngày sau đó, vào ngày 24 tháng Ba, chính phủ của ông bị mất một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm tại Quốc hội và ông đã từ chức.

Reference

  1. ^ Songsri Foran (1981), Thai-British-American relations during World War II and the immediate postwar period, 1940-1946, Thai Khadi Research Institute, Thammasat University, tr. 83
  2. ^ Thak Chaloemtiarana (2007). Thailand: The Politics of Despotic Paternalism. tr. 16.