Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Naresuan”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 50: Dòng 50:
[[Thể loại:Người Ayutthaya]]
[[Thể loại:Người Ayutthaya]]
[[Thể loại:Vua Thái Lan]]
[[Thể loại:Vua Thái Lan]]
[[Thể loại:Người Thái Lan]]

Phiên bản lúc 10:07, ngày 29 tháng 3 năm 2017

Naresuan the Great
สมเด็จพระนเรศวรมหาราช
King of the Ayutthaya Kingdom
Statue of King Naresuan pouring water on the ground, symbolizing declaration of independence from the Burmese Taungoo Empire, at Naresuan University, Phitsanulok province, Thailand
King of Siam
Tại vịngày 1 tháng 7 năm 1590 – ngày 25 tháng 4 năm 1605
Tiền nhiệmMahathammarachathirat
Kế nhiệmEkathotsarot
Thông tin chung
Sinh1555/56
917 CS
Chan Palace, Phitsanulok, Sukhothai Kingdom
Mất(1605-04-25)25 tháng 4 năm 1605 (aged 49)
Monday, 8th waxing of Sixth Siamese month (Vaisakha) 967 CS
Phối ngẫuChao Khrua Manichan
Hoàng tộcSukhothai Dynasty
Thân phụMahathammarachathirat
Thân mẫuWisutkasat

Naresuan (tiếng Thái: นเรศวร; Hay Sanphet II tiếng Thái: สรรเพชญ์ที่ 2)Là vua của vương quốc Ayutthaya từ năm 1590 và chúa tể Lan Na từ năm 1602 cho đến khi ông qua đời vào năm 1605. Naresuan là một trong những vị vua được kính nể nhất của Thái Lan vì ông được biết đến với các chiến dịch của ông để giải phóng Ayutthaya khỏi hòn đảo của Đế chế Taungoo. Trong suốt triều đại của ông, nhiều cuộc chiến tranh đã được chiến đấu chống lại Burma Taungoo. Naresuan cũng hoan nghênh người Hà Lan.

Đầu đời

Hoàng tử Naret sinh tại Phitsanulokin 1555/56.[note 1] Ông là con của vua Mahathammarachathirat của Phitsanulok và nữ hoàng của ông, Wisutkasat. Mẹ của ông là con gái của Maha Chakkraphat và nữ hoàng Suriothai. Cha của ông là một quý tộc Sukhothai đã đánh bại Worawongsathirat năm 1548 và đưa Maha Chakkraphat lên ngôi. Prince Naret, còn được gọi là "Hoàng tử đen" (tiếng Thái: พระองค์ดำ) Có một em trai Ekathotsarot, được gọi là "Hoàng tử trắng" (tiếng Thái: พระองค์ขาว), và một chị gái, Suphankanlaya.[1]:67

Trong cuộc vây hãm thứ hai của Ayutthaya (1563-64), vua Bayinnaung của triều đại Taungoo của Bago, Miến Điện (trước đây được biết đến ở Miến Điện như Hanthawaddy (tiếng Miến Điện: ဟံသာဝတီ Và bằng tiếng Thái như RTGS: Hongsawadi หงสาวดี) Dẫn đầu quân đội khổng lồ, xâm chiếm đất nước và vây hãm Phitsanulok. Maha Thammarachathirat tin rằng thành phố sẽ không thể chịu được một cuộc bao vây dài do sự khan hiếm lương thực và dịch bệnh đậu mùa, vì vậy ông đầu hàng thành phố. Vua Bayinnaung đã đưa Phitsanulok và Ayutthaya, và làm cho Xiêm La trở thành một quốc gia lưu vực Miến Điện.[2] Ông ta yêu cầu Maha Thammarachathirat gửi con trai của ông - Hoàng tử đen - sang Bago như là sự hoan hỷ để đảm bảo lòng trung thành của nhà vua.

Tại Bago

Năm 1569, Bayinnaung từ bỏ cuộc nổi dậy Xiêm đã bắt đầu một năm trước đó, và cài đặt Maha Thammarachathirat như một vị vua chư hầu của Ayutthaya.[3] Sau sáu năm ở Pegu, c. Năm 1570, Hoàng tử Naret và anh trai của ông, Hoàng tử trắng đã trở lại Ayutthaya. Trong khi ở Miến Điện, "ông ấy theo đuổi sự đào tạo quân sự tốt nhất của Miến Điện", nghiên cứu cùng với "tầng lớp thượng lưu của thanh niên Miến Điện, con trai của hoàng tử và quý tộc." "Ngoài việc có năng khiếu về quân sự, Naresuan rất thông minh, đã đạt được nhiều kiến ​​thức tổng quát về thời đại."[4]:43

Vị vua

Lịch sử Phitsanulok

Hộp này chứa liên kết đến
các bài viết có thông tin liên quan
đến lịch sử của tỉnh Phitsanulok.

Kỷ nguyên tiền sử

Nền văn minh Sông Nan · Tai

Đế quốc Khmer

Song Khwae

Thành phố Singhanavati-Tiểu bang

Chaiyasiri · Nakhon Thai

Thời Sukhothai

Wat Chula Manee · Wat Aranyik
Wat Chedi Yod Thong
Wat Phra Si Rattana Mahathat

Thời Ayutthaya

Borommatrailokkanat
Wat Ratchaburana · Wat Nang Phaya
Borommaracha III · Naresuan
Borommakot

Hiện đại Xiêm / Thái Lan

thế kỷ 19 · thế kỷ 20 · Các sự kiện gần đây

Royal statue of King Naresuan at Phra Nakhon Si Ayutthaya.

Maha Thammarachathirat đã làm Naret Uparaja ("Thái tử") của Phitsanulok như Naresuan ở tuổi 15.[note 2] Naresuan gia nhập cha và vua Bago trong một cuộc thám hiểm để chinh phục Viêng Chăn, thủ đô của Lan Xang ở lại, nhưng ông đã mắc phải một số bệnh đậu mùa và phải trở về. Ông đã xây dựng Cung điện Chankasem ở Ayutthaya như một nơi ở khi ông thăm cha mẹ mình.

Năm 1581, Bayinnaung qua đời, và được kế vị bởi con trai Nanda Bayin. Thuyền trưởng của Nanda Thada Minsaw của Ava sau đó nổi dậy năm 1583, buộc Nanda Bayin phải triệu tập các viên chức của Prome, Taungoo, Chiang Mai, Vientiane và Ayutthaya để giúp đỡ đàn áp cuộc nổi dậy. Ngày 2 tháng 2 năm 1584, Naresuan rời quân đội của mình tới Bago theo lệnh, và chỉ đến biên giới vào tháng Tư.[note 3] Theo Damrong, điều này đã làm nảy sinh những nghi ngờ của Nanda, người đã ra lệnh cho con trai mình, Maha Uparaja Mingyi Swa, ở lại thủ đô và giết Naresuan. Các biên niên sử Miến Điện nói rằng Nanda đã đưa ra quyết định để bảo vệ Pão Mingyi Swa trước khi diễu hành tới Ava vào ngày 25 tháng 3 năm 1584.

Reference

  1. ^ Rajanubhab, D., 2001, Our Wars With the Burmese, Bangkok: White Lotus Co. Ltd., ISBN 9747534584
  2. ^ Harvey 1925: 167–168
  3. ^ Harvey 1925: 169–170
  4. ^ Chakrabongse, C., 1960, Lords of Life, London: Alvin Redman Limited

Note

  1. ^ Naresuan was likely born sometime between ngày 18 tháng 7 năm 1555 and ngày 27 tháng 4 năm 1556. (Damrong 2001: 116): He became king on the 13th waning of the eighth Siamese month of 952 CS at age 34 (in 35th year), meaning he was born between 14th waning of Ashadha 917 CS (ngày 18 tháng 7 năm 1555) and 13th waning of Ashadha 918 CS (ngày 5 tháng 7 năm 1556). (Damrong 2001: 177) says that he died in his 50th year on Monday, 8th waxing of the sixth Siamese month (Vaisakha) of 967 CS (ngày 25 tháng 4 năm 1605), meaning he was born sometime between 9th waxing of Vaisakha 917 CS (ngày 29 tháng 4 năm 1555) and 8th waxing of Vaisakha 918 CS (ngày 17 tháng 4 năm 1556).
    Furthermore, (Damrong 2001: 67) also says that Naresuan was already 8 (in his 9th year) when he was taken to Pegu after Bayinnaung took Phitsanulok—per (Damrong 2001: 36) on Sunday, 5th waning of the second Siamese month in the year of the pig: i.e. Sunday, 5th waning of Pausha 925 CS (Sunday, ngày 2 tháng 1 năm 1564). Although (Damrong 2001) does not exactly state when the prince was sent to Pegu, he may have been sent there shortly after ngày 2 tháng 1 năm 1564 or shortly after Bayinnaung took Ayutthaya on ngày 18 tháng 2 năm 1564 per (Hmannan Vol. 2 2003: 355). If so, he may have been born sometime between July 1555 and Jan/February 1556.
  2. ^ (Damrong 2001: 75): He was 8 (in his 9th year) when he went to Pegu in 1564. Six years later, he became viceroy of Phitsanulok at age 15 (16th year).
  3. ^ (Damrong 2001: 85): Naresuan began his march on the 6th waning moon of the third Siamese month, year of the horse, BE 2126, and arrived at Muang Khraeng, the border in the sixth month. Editors of (Damrong 2001) translated the dates as March 1583 and June 1583 respectively. But the given dates are lunisolar calendar dates, and should follow then prevailing Chula Sakarat calendar. The Thai calendar (and the month names) did not get realigned to the Gregorian calendar until 1941. According to (Eade 1989: 133), 6th waning of the 3rd Siamese month (Magha, assuming Sukhothia style month naming adopted at Ayutthaya), 945 CS translates to 2 February [lịch cũ 23 January] năm 1584, and the sixth month translates to ngày 10 tháng 4 năm 1584 to ngày 9 tháng 5 năm 1584 (N.S.) According to the Burmese Hmannan Yazawin chronicle (Hmannan Vol. 3 2003: 77–79), Naresuan's troops arrived near the environs of Pegu prior to Nanda having defeated the Ava rebellion on Tuesday, 1st waning of Kason 946 ME (Tuesday, 24 April [lịch cũ 14 April] năm 1584).