Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Hy Tông”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Ngomanh123 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Ngomanh123 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 11: Dòng 11:
|nơi mất = [[Việt Nam]]
|nơi mất = [[Việt Nam]]
|nơi an táng = Phú Lăng, [[Thanh Hóa]], [[Việt Nam]]
|nơi an táng = Phú Lăng, [[Thanh Hóa]], [[Việt Nam]]
|tên đầy đủ = Lê Duy Cáp, Lê Duy Hiệp
|tên đầy đủ = Lê Duy Cáp (黎維祫) <br/>Lê Duy Hiệp
|kiểu tên đầy đủ = Tên húy
|kiểu tên đầy đủ = Tên húy
|tại vị = [[1675]] &ndash; [[1705]]<timeline>
|tại vị = [[1675]] &ndash; [[1705]]<timeline>

Phiên bản lúc 08:36, ngày 4 tháng 6 năm 2017

Lê Hy Tông
黎熙宗
Vua Việt Nam
Hoàng đế Đại Việt
Tại vị16751705
Tiền nhiệmLê Gia Tông
Kế nhiệmLê Dụ Tông
Thái thượng hoàng Đại Việt
Tại vị17051716
Tiền nhiệmLê Thần Tông
Kế nhiệmLê Dụ Tông
Thông tin chung
Sinh1663
Mất1716
Việt Nam
An tángPhú Lăng, Thanh Hóa, Việt Nam
Tên húy
Lê Duy Cáp (黎維祫)
Lê Duy Hiệp
Niên hiệu
Vĩnh Trị (1676-1680)
Chính Hoà (1680-1705)
Thụy hiệu
Chương Hoàng đế (章皇帝)
Miếu hiệu
Hy Tông (僖宗)
Triều đạiNhà Hậu Lê
Thân phụLê Thần Tông
Thân mẫuTrịnh Thị Ngọc Trúc hoặc Trịnh Thị Ngọc Tấn

Lê Hy Tông (chữ Hán: 黎熙宗; 16631716) tên húyLê Duy Cáp (黎維祫)[1] hay Lê Duy Hiệp[2] là vị vua thứ 10 của nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.

Thân thế

Lê Duy Hiệp là con thứ tư của Lê Thần Tông với cung nhân Trịnh Thị Ngọc Trúc[1] hay Trịnh Thị Ngọc Tấn[2], sinh ra sau khi vua cha đã mất (9/1662) khoảng 5 tháng.

Theo ghi chép của Khâm định Việt sử thông giám cương mục, mẹ ông người xã Đông Khối, huyện Gia Định (tức huyện Gia Bình sau này), không phải tộc thuộc của họ Trịnh ở Sóc Sơn[2]. Trước khi qua đời, Lê Thần Tông dặn Tây vương Trịnh Tạc trông nom giúp đỡ người con sắp ra đời.

Tháng 4 năm 1675, anh Duy Hiệp là Lê Gia Tông qua đời khi mới 14 tuổi không có con nối. Trịnh Tạc lập Duy Hiệp lên làm vua, hiệu là Lê Hy Tông. Ông được người đời ca ngợi là vị vua anh minh đức độ bậc nhất thời Lê Trung Hưng.

Làm vua

Lê Hy Tông lên ngôi từ tháng 6 năm 1675. Lúc này chiến tranh với họ Nguyễn ở miền nam đã chấm dứt, cả hai miền lo củng cố nội trị.

Công việc chính sự triều đình đều do các chúa Trịnh đảm nhận. Chúa Trịnh Tạc và người kế nghiệp sau đó là Trịnh Căn tập trung xây dựng Bắc Hà, dùng nhiều tướng văn võ có năng lực nên tình hình Đàng Ngoài khá ổn định, đời sống xã hội được chấn hưng sau nhiều năm chiến tranh. Thời kỳ Lê Hy Tông làm vua được đánh giá là thịnh trị nhất thời Lê trung hưng[3].

Bộ Đại Việt sử ký toàn thư - công trình sử học của sử gia nhiều đời nhà Hậu Lê - được khắc mộc bản ban hành năm Chính Hòa thứ 18 (1697).

Sau 30 năm làm vua, tháng tháng 3 năm 1705[4], Lê Hy Tông nhường ngôi cho thái tử Lê Duy Đường lên làm thái thượng hoàng.

Ông qua đời tháng 4 năm 1716, hưởng thọ 54 tuổi, được an táng tại Phú Lăng, xã Phú Lâm, huyện Đông Sơn, thuộc Thanh Hóa.

Niên hiệu

Đời Hy Tông đặt hai niên hiệu là;

  • Vĩnh Trị (1/1676 đến 9/1680)
  • Chính Hòa (10/1680 đến 3/1705).

Xem thêm

Tham khảo

Ghi chú