Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Huyền Tông”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Ngomanh123 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Ngomanh123 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 32: Dòng 32:
| kế nhiệm = [[Lê Gia Tông]]
| kế nhiệm = [[Lê Gia Tông]]
| hoàng tộc = [[Nhà Lê trung hưng]]
| hoàng tộc = [[Nhà Lê trung hưng]]
| kiểu hoàng tộc = Triều đại
| niên hiệu = Cảnh Trị
| niên hiệu = Cảnh Trị
| thời gian của niên hiệu = 1663-1671
| thời gian của niên hiệu = 1663-1671
| miếu hiệu =[[Huyền Tông]] (玄宗)
| miếu hiệu =[[Huyền Tông]] (玄宗)
| thụy hiệu = [[Mục Đế|Mục hoàng đế]]
| thụy hiệu = <font color="grey">Mục Hoàng đế</font>
| cha = [[Lê Thần Tông]]
| cha = [[Lê Thần Tông]]
| mẹ = [[Phạm Thị Ngọc Hậu]]
| mẹ = [[Phạm Thị Ngọc Hậu]]

Phiên bản lúc 06:52, ngày 15 tháng 6 năm 2017

Lê Huyền Tông
黎玄宗
Vua Việt Nam
Hoàng đế Đại Việt
Trị vì1662 - 1671
Tiền nhiệmLê Thần Tông
Kế nhiệmLê Gia Tông
Thông tin chung
Sinh1654
Mất1671
Việt Nam
Tên húy
Lê Duy Vũ (黎維禑)
Niên hiệu
Cảnh Trị: 1663-1671
Thụy hiệu
Mục Hoàng đế
Miếu hiệu
Huyền Tông (玄宗)
Triều đạiNhà Lê trung hưng
Thân phụLê Thần Tông
Thân mẫuPhạm Thị Ngọc Hậu

Lê Huyền Tông (chữ Hán: 黎玄宗, 16541671), tên thật là Lê Duy Vũ (黎維禑), tên khác là Lê Duy Hi (黎維禧), là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lê trung hưng, trong lịch sử Việt Nam. Mẹ đẻ là hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Hậu.

Việc lên ngôi

Việc Lê Huyền Tông lên ngôi được sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép như sau: "Tháng 9 (năm Nhân Dần, 1662), Vua (tức vua Lê Thần Tông) nhiễm bệnh, xuống chiếu đổi niên hiệu là Vạn Khánh năm thứ nhất. Đại xá.

Bấy giờ, Vua còn chưa khỏi bệnh, nên có chỉ dụ cho Thượng sư Tây Vương (chỉ Trịnh Tạc) rằng: "Trước đây, vì chưa có con nối dõi, cho nên mới lấy Duy Tào là người khác họ làm Thái tử. Nay, vì lo việc về sau, trên sợ anh linh của tổ tông đang ở cõi trời, không dám khinh suất, đem ngôi lớn phó thác cho người khác họ. Vậy, hãy phế Duy Tào đi rồi cho hắn theo về với họ mẹ. Nay, con đích (thực ra là con thứ, nhưng vì anh là Lê Duy Hựu tức vua Lê Chân Tông đã mất nên con thứ được coi là con đích) là Duy Vũ đã lên 9 tuổi, đã bắt đầu trưởng thành, nhờ Vương (tức Trịnh Tạc) giúp đỡ nên người để nối nghiệp lớn, giữ yên lòng thần dân".

Vương thấy việc này rất hệ trọng, bèn sai các quan văn võ vào thềm son để đợi mệnh, đồng thời, uỷ cho bọn Tham tụng, Lễ bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ, Thiếu bảo, tước Yên Quận công là Phạm Công Trứ, cùng các quan Hữu Đô đốc kiêm Thái giám, tước Bái Quận công là Lê Viết Đăng, Hằng Quận công là Lê Đăng Tiến, vào chỗ Vua nằm để đợi cố mệnh. Nhà vua khẩn khoản hiểu dụ đến hai ba lần. Y như lời dụ trước đó (với Thượng sư Tây Vương Trịnh Tạc). Phạm Công Trứ đem lời Vua trình lại cho Vương hay. Vương là các quan tôn lập Hoàng tử Duy Vũ làm Thái tử, phế Duy Tào làm thứ dân, cho theo về với họ mẹ.

Sau khi vua Lê Thần Tông qua đời, tháng 10 năm Nhâm Dần (1662), Lê Duy Vũ lên ngôi vua, và quyền chính do Tây vương Trịnh Tạc nắm giữ.

Ông là một vị vua yểu mệnh, sau khi ở ngôi được chín năm, ông mất vào ngày 15 tháng 10 năm Tân Hợi (1671), hưởng dương 17 tuổi, và không có con nối dõi

Vua Lê Huyền Tông được an táng tại huyện Lôi Dương (nay là huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa).

Theo Việt Nam sử lược, khi mới lên ngôi, nhà vua cho thông sứ với nhà Thanh, và cấm đạo Thiên chúa[1].

Niên hiệu

Trong thời gian ở ngôi, Lê Huyền Tông chỉ đặt một niên hiệu duy nhất:

Chú thích