Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bộ Công”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Ngomanh123 (thảo luận | đóng góp)
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Ngomanh123 (thảo luận | đóng góp)
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 4: Dòng 4:
==Lịch sử==
==Lịch sử==
===Việt Nam===
===Việt Nam===
Các triều đại phong kiến [[Việt Nam]] sau thời kỳ giành lại độc lập năm [[938]] qua các triều [[Nhà Đinh|Đinh]], [[Nhà Tiền Lê|Tiền Lê]] chưa hình thành nên các Bộ (部) . Đến thời kỳ [[Nhà Lý]], năm [[1089]], [[Lý Nhân Tông]] bắt đầu đặt các bộ nhưng chưa đủ. Đời [[Nhà Trần|Trần]] chỉ có 4 bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ đặt dưới quyền điều khiển của tướng quốc. Đầu thời [[Nhà Lê sơ|Lê sơ]], đời vua [[Lê Thái Tổ]] chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Đến đời Lệ Đức hầu [[Lê Nghi Dân]], khoảng [[tháng 2]] năm [[1460]], bàn việc đặt phủ huyện, lại đặt 6 bộ, 6 khoa và các quan ở phủ, huyện châu<ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1993, trang 278</ref><ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 429</ref>. Từ đây triều đình nước [[Đại Việt]] được tổ chức dựa theo hệ thống quan chế của các triều đại Trung Hoa mới chính thức đặt đầy đủ Lục bộ, Lục khoa, vì vậy Công bộ ra đời từ đây. Thời [[Lê Thánh Tông]] vẫn giữ nguyên và đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của [[hoàng đế]]. Đến giữa thời Lê Trung Hưng, các chúa Trịnh nắm hết quyền hành, lập ra lục phiên (Lễ phiên, Lại phiên, Công phiên, Hộ phiên,..) nằm trong phủ chúa, tồn tại song song với lục bộ. Lúc này lục bộ chỉ còn là hình thức, mọi việc do Lục phiên đảm trách. Đến thời Nguyễn lục bộ lại đặt trực tiếp dưới quyền nhà vua.
Các triều đại phong kiến [[Việt Nam]] sau thời kỳ giành lại độc lập năm [[938]] qua các triều [[Nhà Đinh|Đinh]], [[Nhà Tiền Lê|Tiền Lê]] chưa hình thành nên các Bộ (部) . Đến thời kỳ [[Nhà Lý]], năm [[1089]], [[Lý Nhân Tông]] bắt đầu đặt các bộ nhưng chưa đủ. Đời [[Nhà Trần|Trần]] chỉ có 4 bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ đặt dưới quyền điều khiển của tướng quốc. Đầu thời [[Nhà Lê sơ|Lê sơ]], đời vua [[Lê Thái Tổ]] chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Đến đời Lệ Đức hầu [[Lê Nghi Dân]], khoảng [[tháng 2]] năm [[1460]], bàn việc đặt phủ huyện, lại đặt 6 bộ, 6 khoa và các quan ở phủ, huyện châu<ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1993, trang 278</ref><ref>[[Đại Việt sử ký toàn thư]], Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 429</ref>. Từ đây triều đình nước [[Đại Việt]] được tổ chức dựa theo hệ thống quan chế của các triều đại Trung Hoa mới chính thức đặt đầy đủ Lục bộ, Lục khoa, vì vậy Công bộ ra đời từ đây. Thời [[Lê Thánh Tông]] vẫn giữ nguyên và đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của [[hoàng đế]]. Đến giữa thời Lê Trung Hưng, các chúa Trịnh nắm hết quyền hành, lập ra lục phiên (Lễ phiên, Lại phiên, Công phiên, Hộ phiên,..) nằm trong phủ chúa, tồn tại song song với lục bộ. Lúc này lục bộ chỉ còn là hình thức, mọi việc do Lục phiên đảm trách. Đến thời Nguyễn lục bộ lại đặt trực tiếp dưới quyền nhà vua.


Dưới thời [[Nhà Nguyễn|Nguyễn]], biên chế Công bộ gồm: 1 Thượng thư, 2 Tả Hữu Tham tri, 2 Tả Hữu Thị lang, 3 Lang trung, 3 Viên ngoại, 4 Chủ sự, 4 Tư vụ, 8 chánh bát phẩm Thư lại.
Dưới thời [[Nhà Nguyễn|Nguyễn]], biên chế Công bộ gồm: 1 Thượng thư, 2 Tả Hữu Tham tri, 2 Tả Hữu Thị lang, 3 Lang trung, 3 Viên ngoại, 4 Chủ sự, 4 Tư vụ, 8 chánh bát phẩm Thư lại.

Phiên bản lúc 13:37, ngày 29 tháng 6 năm 2017

Bộ Công hay Công bộ (chữ Hán: 功部) là tên gọi của một cơ quan hành chính thời phong kiến tại các nước Đông Á, như Trung Quốc, Việt Nam, tương đương với cấp Bộ ngày nay. Đứng đầu Công bộ là Thượng thư ( 尚書 , tương đương Bộ trưởng nay) ; giúp việc có tả thị lang 左侍郎 , hữu thị lang 右侍郎 (thời Lý - Trần - Lê) hoặc tham tri (thời Nguyễn) (tương đương cấp thứ trưởng ngày nay); lang trung, viên ngoại lang, tư vụ... (tương đương vụ trưởng, giám đốc các nha hoặc chánh / phó văn phòng ngày nay). Công bộ có thể coi là tương đương với Bộ Giao Thông Vận tải ngày nay. Quan đứng đầu bộ Công là Công bộ thượng thư (thượng thư bộ Công), tương đương với bộ trưởng bộ Giao thông vận tải ngày nay. [1]

Lịch sử

Việt Nam

Các triều đại phong kiến Việt Nam sau thời kỳ giành lại độc lập năm 938 qua các triều Đinh, Tiền Lê chưa hình thành nên các Bộ (部) . Đến thời kỳ Nhà Lý, năm 1089, Lý Nhân Tông bắt đầu đặt các bộ nhưng chưa đủ. Đời Trần chỉ có 4 bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ đặt dưới quyền điều khiển của tướng quốc. Đầu thời Lê sơ, đời vua Lê Thái Tổ chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Đến đời Lệ Đức hầu Lê Nghi Dân, khoảng tháng 2 năm 1460, bàn việc đặt phủ huyện, lại đặt 6 bộ, 6 khoa và các quan ở phủ, huyện châu[2][3]. Từ đây triều đình nước Đại Việt được tổ chức dựa theo hệ thống quan chế của các triều đại Trung Hoa mới chính thức đặt đầy đủ Lục bộ, Lục khoa, vì vậy Công bộ ra đời từ đây. Thời Lê Thánh Tông vẫn giữ nguyên và đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của hoàng đế. Đến giữa thời Lê Trung Hưng, các chúa Trịnh nắm hết quyền hành, lập ra lục phiên (Lễ phiên, Lại phiên, Công phiên, Hộ phiên,..) nằm trong phủ chúa, tồn tại song song với lục bộ. Lúc này lục bộ chỉ còn là hình thức, mọi việc do Lục phiên đảm trách. Đến thời Nguyễn lục bộ lại đặt trực tiếp dưới quyền nhà vua.

Dưới thời Nguyễn, biên chế Công bộ gồm: 1 Thượng thư, 2 Tả Hữu Tham tri, 2 Tả Hữu Thị lang, 3 Lang trung, 3 Viên ngoại, 4 Chủ sự, 4 Tư vụ, 8 chánh bát phẩm Thư lại.

Quan đứng đầu bộ Công, theo quan chế thời Hồng Đức và Bảo Thái cho hàm tòng nhị phẩm; thời Nguyễn cho hàm Chánh nhị phẩm, thuộc hàng Chánh khanh.[1]

Trung Quốc

Thời Tùy, ĐườngNgũ đại, Công bộ là một trong sáu bộ (Lục bộ) của Thượng thư tỉnh. Dưới thời Đường, biên chế Công bộ gồm: Công bộ ty, Đồn điền ty, Ngu bộ ty, Thủy bộ ty.[4]

Dưới thời Tống, biên chế Công bộ gồm: Phán bộ sự (1 người) Nguyên Phong về sau: Thượng thư một người (Tòng nhị phẩm), Thị lang 1 người (tòng tam phẩm).[5]

Chức trách

Các chức năng cụ thể của Công bộ bao gồm:

  • Trông coi việc xây dựng thành lũy, đắp đê, xây dựng cầu cống đường sá, việc thổ mộc, tu sửa các công trình khi cần thiết, xây dựng lăng tẩm cho các vua chúa
  • Quản đốc thợ thuyền và công việc trong các công xưởng của nhà nước, xưởng làm vũ khí, xưởng đúc tiền, chế tạo đồ dùng của vua và quan lại.
  • Đóng tàu thuyền cho thủy binh

Đời Tùy, Công bộ quản lý nghiệp vụ kinh tế và hậu cần như nông nghiệp, xây dựng, thủ công nghiệp. Đời Minh, Công bộ chủ quản kiến thiết công cộng và có địa vị khá thấp. [6] Thời Mãn Thanh, Công bộ xử lý mọi dự án xây cất của triều đình gồm các cung điện, đền đài và sửa chữa các đường thủy cũng như các kênh tiêu lũ. Họ cũng chịu trách nhiệm đúc tiền.

Ghi chú

  1. ^ a b “Một thời kỳ hoàng kim dưới sự trị vì của vua Lê Thánh Tông”. tuyengiao.vn. 17 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2017. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “vp” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  2. ^ Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1993, trang 278
  3. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 429
  4. ^ Chế độ Chính trị bài Nhà Đường
  5. ^ “Quan chế Trung ương thời Tống (960 - 1279)”.
  6. ^ 《細說明朝》〈二七、六 部〉. 黎東方. 第63頁