Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chùa Tây An”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 7: Dòng 7:
Tương truyền, vào năm [[1820]] dưới triều [[Minh Mạng]], tổng đốc Nguyễn Nhật An đã cho dựng tạm một am thờ bằng tre lá nơi chân [[núi Sam]], mà bây giờ chùa Tây An tọa lạc.
Tương truyền, vào năm [[1820]] dưới triều [[Minh Mạng]], tổng đốc Nguyễn Nhật An đã cho dựng tạm một am thờ bằng tre lá nơi chân [[núi Sam]], mà bây giờ chùa Tây An tọa lạc.


Đến năm [[1847]] tổng đốc An-Hà ([[An Giang]] và [[Hà Tiên]]) [[Doãn Uẩn]], vui mừng vì lập được đại công đánh đuổi được quân [[Xiêm La]], bình định được [[Chân Lạp]], nên đã cho xây dựng lại bằng tường gạch, nền cuốn đá xanh, mái lợp ngói. Đến năm [[1861]], [[hòa thượng]] Nhất Thừa cho trùng tu lại chính điện và hậu tổ. Đến năm [[1958]], hòa thượng Nguyễn Thế Mật đứng ra vận động xây dựng mới ba ngôi cổ lầu, mặt chính và ngôi chính điện, nên chùa có diện mạo như ngày hôm nay.
Đến năm [[1847]] tổng đốc An-Hà ([[An Giang]] và [[Hà Tiên]]) [[Doãn Uẩn]], vui mừng vì lập được đại công đánh đuổi được quân [[Xiêm La]], bình định được [[Chân Lạp]], nên đã cho xây dựng lại bằng tường gạch, nền cuốn đá xanh, mái lợp ngói; và đặt tên là ''Tây An'' với hàm ý trấn yên bời cõi [[phía Tây]]<ref>Nhiều người soạn, ''Địa chí An Giang'' (tập 2. Chính quyền tỉnh An Giang ấn hành, 2007, tr. 243). Ngoài ra, tên "Tây An" còn là đảo tự tên ''"An Tây" mưu mưu tướng'' mà nhà vua đã phong tặng cho ông.</ref>.
Năm [[1861]], [[hòa thượng]] Nhất Thừa cho trùng tu lại chính điện và hậu tổ. Năm [[1958]], hòa thượng Nguyễn Thế Mật đứng ra vận động xây dựng mới ba ngôi cổ lầu, mặt chính và ngôi chính điện, nên chùa có diện mạo như ngày hôm nay.
Và vị sư trụ trì đầu tiên là hòa thượng Nguyễn Văn Giác, pháp hiệu Hải Tịnh, tu theo phái [[Lâm Tế]], nên có người còn gọi chùa Tây An là chùa Lâm Tế <ref>Phái Lâm Tế: một trong năm dòng phái chánh: ''Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn''. Tất cả đều phát xuất từ [[Trung Quốc]].</ref>
Và vị sư trụ trì đầu tiên là hòa thượng Nguyễn Văn Giác, pháp hiệu Hải Tịnh, tu theo phái [[Lâm Tế]], nên có người còn gọi chùa Tây An là chùa Lâm Tế <ref>Phái Lâm Tế: một trong năm dòng phái chánh: ''Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn''. Tất cả đều phát xuất từ [[Trung Quốc]].</ref>

Phiên bản lúc 08:41, ngày 6 tháng 7 năm 2010

Chùa Tây An núi Sam

Chùa Tây An còn được gọi Chùa Tây An núi Sam hay Tây An cổ tự, là một ngôi chùa Phật giáo tọa lạc tại ngã ba, cận kề chân núi núi Sam (cao 284m so với mặt nước biển), thuộc xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang, cách trung tâm thị xã Châu Đốc 5 km.

Chùa Tây An không chỉ là một danh lam để người tin tưởng đến lễ bái, mà còn là một thắng cảnh du lịch nổi tiếng.

Lịch sử

Tương truyền, vào năm 1820 dưới triều Minh Mạng, tổng đốc Nguyễn Nhật An đã cho dựng tạm một am thờ bằng tre lá nơi chân núi Sam, mà bây giờ chùa Tây An tọa lạc.

Đến năm 1847 tổng đốc An-Hà (An GiangHà Tiên) Doãn Uẩn, vui mừng vì lập được đại công đánh đuổi được quân Xiêm La, bình định được Chân Lạp, nên đã cho xây dựng lại bằng tường gạch, nền cuốn đá xanh, mái lợp ngói; và đặt tên là Tây An với hàm ý trấn yên bời cõi phía Tây[1].

Năm 1861, hòa thượng Nhất Thừa cho trùng tu lại chính điện và hậu tổ. Năm 1958, hòa thượng Nguyễn Thế Mật đứng ra vận động xây dựng mới ba ngôi cổ lầu, mặt chính và ngôi chính điện, nên chùa có diện mạo như ngày hôm nay.

Và vị sư trụ trì đầu tiên là hòa thượng Nguyễn Văn Giác, pháp hiệu Hải Tịnh, tu theo phái Lâm Tế, nên có người còn gọi chùa Tây An là chùa Lâm Tế [2]

Cũng trong khoảng thời gian này ông Đoàn Minh Huyên (1807-1856), người sáng lập ra giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương đến tu, nên chùa càng nổi tiếng.

Sách Đại Nam nhất thống chí viết về chùa Tây An như sau:

Chùa ở địa phận thôn Vĩnh Tế, huyện Tây Xuyên, nguyên tổng đốc Doãn Uẩn cho xây dựng năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Chùa đứng trên núi, mặt trước trông ra tỉnh thành, phía sau dựa vào vòm núi, tiếng người vắng lặng, cổ thụ âm u, cũng là một thắng cảnh thiền lâm vậy[3].

Kiến trúc

Chùa Tây An cất theo lối chữ “tam” (三),mang phong cách nghệ thuật Ấn Độnghệ thuật Hồi giáo, kết hợp với kiến trúc chùa cổ của dân tộc Việt.

Chùa được xây dựng với các vật liệu bền chắc như gạch ngói, xi măng. Nơi cổng tam quan là tượng Quan Âm Thị Kính, bên trong cổng là một sân chùa nhỏ có một cột phướn cao 16 m.

Mặt tiền chùa, ở giữa là tháp thờ Phật cao hai tầng. Tầng trên là tượng Phật đứng giữa lầu cao, mái tròn cong, đỉnh nhọn như các tháp xưa ở Ấn Độ. Bốn cột tháp ở tầng dưới có các hộ pháp trấn giữ, phía trước có tượng hai con voi: bạch tượng và hắc tượng.

Chính điện là dãy nhà rộng, hai tầng mái, lợp ngói đại ống, cột gỗ căm xe, nền lát gạch bông. Hai bên là lầu chiêng và lầu trống hình tứ giác, trên đỉnh trang trí các tượng tứ linh (long, lân, qui, phụng) rất mỹ thuật. Đại hồng chung ở lầu chuông được tạo vào năm Tự Đức thứ 32 (1879).

Trong chính điện có khoảng 150[4] pho tượng lớn nhỏ: tượng Phật, Bồ tát, La hán, Bát bộ kim cang, Ngọc hoàng, Huỳnh đế, Thần nông v.v...Đa số tượng đều làm bằng danh mộc, chạm trổ công phu và mỹ thuật, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc Việt Nam vào thế kỷ 19. Ngoài ra chùa còn có nhiều hoành phi và câu đối, màu sắc rực rỡ.

Chùa Tây An đã được Bộ Văn Hóa xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia theo quyết định số: 92/VH.QĐ ngày 10 tháng 07 năm 1980.

Trùng tên

Thời gian Đoàn Minh Huyên bị buộc đến tu ở chùa Tây An, nhưng lòng ông vẫn luyến nhớ trại ruộng đơn sơ ở cốc ông Đạo Kiến trên cù lao Ông Chưởng (xưa thuộc xã Long Kiến, nay thuộc xã Long Giang, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang). Đấy là nơi khi xưa ông phát phù trị bệnh cho hằng ngàn bệnh nhân bị nạn dịch tả bạo hành, nên vẫn thường lui tới viếng thăm.

Đến khi người dân tự nguyện xây dựng một nơi thờ phương Tam Bảo ở chốn này, ông Đoàn Minh Huyên đặt tên cho ngôi chùa ấy là Tây An cổ tự. Sau này, chùa Tây An ở núi Sam cũng trở thành cổ tự (vì đã trên 150 năm), nên mới xảy ra việc trùng tên chùa.

Ảnh

Chú thích

  1. ^ Nhiều người soạn, Địa chí An Giang (tập 2. Chính quyền tỉnh An Giang ấn hành, 2007, tr. 243). Ngoài ra, tên "Tây An" còn là đảo tự tên "An Tây" mưu mưu tướng mà nhà vua đã phong tặng cho ông.
  2. ^ Phái Lâm Tế: một trong năm dòng phái chánh: Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn. Tất cả đều phát xuất từ Trung Quốc.
  3. ^ Dẫn lại theo Nguyễn Hiền Đức, Lịch sử Phật giáo Đàng trong. NXB TP. Hồ Chí Minh, 1995, tr.380.
  4. ^ Theo Nguyễn Hữu Hiệp,Tây An Cổ Tự ở Núi Sam(Nam Bộ đất và người, Viện Khoa học Lịch sử TP. HCM, NXB Trẻ, 2005, tr. 426-427-428).

Tham khảo

Một số bài viết liên quan đến chùa miếu ở An Giang
Chùa Linh SơnMiếu Bà Chúa XứChùa Phật LớnChùa Ông BắcChùa Tây AnĐình Mỹ PhướcChùa Giồng ThànhChùa Phước ĐiềnChùa Phi Lai, Chùa Tam BửuĐền thờ Quản cơ Trần Văn ThànhĐình Châu PhúChùa Xà Tón