Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đạo Quang”
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 38: | Dòng 38: | ||
| father =[[Thanh Nhân Tông]] |
| father =[[Thanh Nhân Tông]] |
||
| mother =[[Hiếu Thục Duệ Hoàng Hậu]] |
| mother =[[Hiếu Thục Duệ Hoàng Hậu]] |
||
| date of birth ={{Birth date| |
| date of birth ={{Birth date|1784|9|16}} |
||
| place of birth = [[Tử Cấm Thành (Bắc Kinh)|Tử Cấm Thành]], [[Bắc Kinh]] |
| place of birth = [[Tử Cấm Thành (Bắc Kinh)|Tử Cấm Thành]], [[Bắc Kinh]] |
||
| date of death = {{Death date and age|1850|2|26|1782|9|16}} |
| date of death = {{Death date and age|1850|2|26|1782|9|16}} |
||
Dòng 45: | Dòng 45: | ||
}} |
}} |
||
'''Thanh Tuyên Tông''' ([[chữ Hán]]: 清宣宗, [[16 tháng 9]] năm [[ |
'''Thanh Tuyên Tông''' ([[chữ Hán]]: 清宣宗, [[16 tháng 9]] năm [[1784]] – [[26 tháng 2]] năm [[1850]]), Hãn hiệu '''Thác Nhĩ Cách Lặc Đặc hãn''' (托尔格勒特汗; Төр Гэрэлт хаан), [[Tây Tạng]] tôn vị '''Văn Thù hoàng đế''' (文殊皇帝), là vị [[Hoàng đế]] thứ 8 của triều đại [[nhà Thanh]], cai trị [[Trung Quốc]] từ năm [[1820]] đến [[1850]]. Nguyên thời kì dùng [[niên hiệu]] '''Đạo Quang''' (道光), còn gọi là '''Đạo Quang Đế''' (道光帝). |
||
Thời kỳ cai trị của ông gắn liền với sự kiện rất quan trọng trong lịch sử [[nhà Thanh]] đó là cuộc [[Chiến tranh Nha phiến]] và ngăn chặn truyền bá [[Kitô giáo|đạo Công giáo]] vào Trung Hoa. Cuộc chiến tranh này đã mở đầu cho việc các nước [[phương Tây]] xâm nhập và xâu xé [[Trung Quốc]]. Thời kỳ của ông cùng cha là [[Gia Khánh Đế]] báo hiệu thời kỳ suy vong của Đại Thanh, nên được đời sau gọi là '''Gia Đạo trung suy''' (嘉道中衰). |
Thời kỳ cai trị của ông gắn liền với sự kiện rất quan trọng trong lịch sử [[nhà Thanh]] đó là cuộc [[Chiến tranh Nha phiến]] và ngăn chặn truyền bá [[Kitô giáo|đạo Công giáo]] vào Trung Hoa. Cuộc chiến tranh này đã mở đầu cho việc các nước [[phương Tây]] xâm nhập và xâu xé [[Trung Quốc]]. Thời kỳ của ông cùng cha là [[Gia Khánh Đế]] báo hiệu thời kỳ suy vong của Đại Thanh, nên được đời sau gọi là '''Gia Đạo trung suy''' (嘉道中衰). |
||
== Tiểu sử == |
== Tiểu sử == |
||
Ông sinh ngày [[10 tháng 8]] năm Càn Long thứ 47 (tức ngày [[16 tháng 9]] năm [[ |
Ông sinh ngày [[10 tháng 8]] năm Càn Long thứ 47 (tức ngày [[16 tháng 9]] năm [[1784]]), là con trai thứ hai của [[Thanh Nhân Tông]] Gia Khánh hoàng đế, mẹ là [[Hiếu Thục Duệ Hoàng Hậu]] Hỉ Tháp Lạp thị, được sinh ra trong [[Tử Cấm Thành]], [[Bắc Kinh]] và được đặt tên là ''Miên Ninh'' (綿寧), được đổi thành '''Mân Ninh''' (旻寧) lúc ông lên ngôi Hoàng đế. |
||
Khi được sinh ra, cha ông vẫn còn là Hoàng thập ngũ tử của ông nội [[Càn Long Đế]], và mẹ ông Hỉ Tháp Lạp thị đó là Đích phúc tấn của Hoàng thập ngũ tử. Trước khi sinh ra, Gia Khánh Đế có một con trai nhưng đã chết yểu, khi ông sinh ra trở thành con vợ cả, lại do đứa con trưởng (về sau được ông truy tặng làm [[Mục quận vương'') đã chết yểu, nên ông khi đó trở thành ''đích trưởng tử'', thập phần cao quý. Từ nhỏ được ghi nhận thông minh hoạt bát, là đứa cháu được Càn Long Đế yêu quý hơn cả. |
Khi được sinh ra, cha ông vẫn còn là Hoàng thập ngũ tử của ông nội [[Càn Long Đế]], và mẹ ông Hỉ Tháp Lạp thị đó là Đích phúc tấn của Hoàng thập ngũ tử. Trước khi sinh ra, Gia Khánh Đế có một con trai nhưng đã chết yểu, khi ông sinh ra trở thành con vợ cả, lại do đứa con trưởng (về sau được ông truy tặng làm [[Mục quận vương'') đã chết yểu, nên ông khi đó trở thành ''đích trưởng tử'', thập phần cao quý. Từ nhỏ được ghi nhận thông minh hoạt bát, là đứa cháu được Càn Long Đế yêu quý hơn cả. |
Phiên bản lúc 00:24, ngày 5 tháng 10 năm 2017
Đạo Quang Đế 道光帝 | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng đế Trung Hoa | |||||||||||||||||
Hoàng đế Đại Thanh | |||||||||||||||||
Trị vì | 3 tháng 10 năm 1820 – 25 tháng 2 năm 1850 (29 năm, 145 ngày) | ||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Thanh Nhân Tông | ||||||||||||||||
Kế nhiệm | Thanh Văn Tông | ||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||
Sinh | 16 tháng 9, 1784 | ||||||||||||||||
Mất | 26 tháng 2, 1850 | (67 tuổi)||||||||||||||||
Hoàng hậu | Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu Hiếu Thận Thành Hoàng hậu Hiếu Mục Thành Hoàng hậu Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu | ||||||||||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Thân phụ | Thanh Nhân Tông | ||||||||||||||||
Thân mẫu | Hiếu Thục Duệ Hoàng Hậu |
Thanh Tuyên Tông (chữ Hán: 清宣宗, 16 tháng 9 năm 1784 – 26 tháng 2 năm 1850), Hãn hiệu Thác Nhĩ Cách Lặc Đặc hãn (托尔格勒特汗; Төр Гэрэлт хаан), Tây Tạng tôn vị Văn Thù hoàng đế (文殊皇帝), là vị Hoàng đế thứ 8 của triều đại nhà Thanh, cai trị Trung Quốc từ năm 1820 đến 1850. Nguyên thời kì dùng niên hiệu Đạo Quang (道光), còn gọi là Đạo Quang Đế (道光帝).
Thời kỳ cai trị của ông gắn liền với sự kiện rất quan trọng trong lịch sử nhà Thanh đó là cuộc Chiến tranh Nha phiến và ngăn chặn truyền bá đạo Công giáo vào Trung Hoa. Cuộc chiến tranh này đã mở đầu cho việc các nước phương Tây xâm nhập và xâu xé Trung Quốc. Thời kỳ của ông cùng cha là Gia Khánh Đế báo hiệu thời kỳ suy vong của Đại Thanh, nên được đời sau gọi là Gia Đạo trung suy (嘉道中衰).
Tiểu sử
Ông sinh ngày 10 tháng 8 năm Càn Long thứ 47 (tức ngày 16 tháng 9 năm 1784), là con trai thứ hai của Thanh Nhân Tông Gia Khánh hoàng đế, mẹ là Hiếu Thục Duệ Hoàng Hậu Hỉ Tháp Lạp thị, được sinh ra trong Tử Cấm Thành, Bắc Kinh và được đặt tên là Miên Ninh (綿寧), được đổi thành Mân Ninh (旻寧) lúc ông lên ngôi Hoàng đế.
Khi được sinh ra, cha ông vẫn còn là Hoàng thập ngũ tử của ông nội Càn Long Đế, và mẹ ông Hỉ Tháp Lạp thị đó là Đích phúc tấn của Hoàng thập ngũ tử. Trước khi sinh ra, Gia Khánh Đế có một con trai nhưng đã chết yểu, khi ông sinh ra trở thành con vợ cả, lại do đứa con trưởng (về sau được ông truy tặng làm [[Mục quận vương) đã chết yểu, nên ông khi đó trở thành đích trưởng tử, thập phần cao quý. Từ nhỏ được ghi nhận thông minh hoạt bát, là đứa cháu được Càn Long Đế yêu quý hơn cả.
Năm Gia Khánh nguyên niên (1796), Gia Khánh Đế đăng cơ, ông thú đích thê Nữu Hỗ Lộc thị làm Đích phúc tấn. Năm thứ 4 (1799), tháng 4, Gia Khánh Đế bí mật lập ông làm Trữ quân. Năm thứ 13 (1808), con trai đầu của ông là Dịch Vĩ sinh ra.
Ông là người giỏi võ công, trong số hoàng tử hơi có tiếng tăm. Sự kiện Thiên Lý giáo vào năm Gia Khánh thứ 18 (1813) diễn ra, ông đích thân đánh được giặc, do đó vào tháng 9 được tấn phong tước vị Trí thân vương (智亲王).
Vào năm Gia Khánh thứ 23 (1818), Mân Ninh theo cha là Gia Khánh Đế đi Thịnh Kinh (tên gọi khác của Thẩm Dương) để tế lễ tưởng nhớ tổ tiên. Tối đó Hoàng đế và Trí thân vương Mân Ninh nghỉ tại cố cung Thẩm Dương. Tuy nói nơi đây là cung điện, nhưng thực tế lại khá tồi tàn, chật hẹp, thậm chí còn không bằng với thương phủ Sơn Tây hay phủ đệ của Vương gia. Gia Khánh Đế khi đó đưa Mân Ninh tới phòng lò sưởi phía đông của Thanh Ninh cung, lại sai người lấy di vật của Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích và Thái Tông Hoàng Thái Cực cho Trí thân vương xem qua. Nhìn những vật phẩm đơn sơ, lại nghe phụ hoàng hồi tưởng lại những năm tháng gian nan lập nghiệp của tổ tiên, Mân Ninh từ đó quyết chí rèn luyện tính tiết kiệm.
Gia Khánh năm thứ 25 (1820), ngày 18 tháng 7, Gia Khánh Đế đến Nhiệt Hà, mệnh Trí thân vương Miên Ninh, cùng Thụy thân vương Miên Hân phò giá. Khi đó Gia Khánh Đế đã 61 tuổi, thân thể đẫy đà mập mạp. Ngày thứ 24, tùy giá đến Nhiệt Hà, "Thánh cung không vui". Cùng ngày, Gia Khánh Đế đến Thành Hoàng miếu thấp lễ, đột ngột đêm xuống bạo băng. Nguyên nhân cái chết có lẽ do thân thể ông phì nộn, tiết trời lại nắng nóng, lữ đồ mệt nhọc, dụ phát não, tâm huyết quản bệnh mà chết đột ngột. Cơ Mật viện đại thần họp khẩn, mở ra chiếu đạo bí mật, tuyên bố Trí thân vương Miên Ninh kế vị.
Năm đó, ngày 3 tháng 10, ông chính thức đăng cơ, niên hiệu là Đạo Quang. Do chữ Miên có tính phổ thông, sợ rằng không thể bắt dân chúng thay đổi, nên ông tự đổi tên húy kị thành Mân Ninh. Như vậy, ông là vị đích trưởng tử đầu tiên, và có lẽ duy nhất, kế thừa hoàng vị của triều đình Đại Thanh.
Trị vì
Ban hành đạo luật tiết kiệm
Vào năm Đạo Quang thứ nhất, ông ban hành “Ngự chế Thanh sắc hóa lợi dụ”, đại ý là:
Thứ nhất: trọng nghĩa khinh lợi, không tích tư tài, trước là vì quốc gia, sau là vì thiên hạ, vì bách tính. Ông còn trích dẫn câu nói của cổ nhân: “bách tính no đủ, quân vương có thể giàu, nhưng bách tính thiếu thốn, quân vương sao có thể đủ đầy?”
Thứ hai: đình chỉ việc các tỉnh tiến cống. Đạo Quang cho rằng các tỉnh tiến cống đều là những đặc sản như hoa quả, rau dưa, lá trà, dược liệu … Những thứ này đều là mồ hôi, nước mắt của nhân dân, bỏ đi phần nào có thể giảm bớt phần đó gánh nặng cho dân. Hơn nữa, đường sá xa xôi, việc vận chuyển có thể gây lãng phí nhân công, tài lực.
Thứ ba: không xây thêm các cung điện, lầu các. Qua nhiều lần tu sửa, xây dựng từ các đời Khang – Ung – Càn, nơi ở của hoàng thất đã “tận thiện tận mỹ”, ngoại trừ việc giữ gìn, không cần thiết phải xây thêm. Những kẻ đề cử ý kiến xây thêm cung điện sẽ trở thành tội nhân, bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Sau khi được ban hành, Ngự chế Thanh sắc hóa lợi dụ này được các quan viên tích cực nghiên cứu, nhiệt tình thảo luận, lĩnh hội sâu sắc, thậm chí còn nhận được vô số lời tán dương. Tuy nhiên những điều trên nói thì dễ, thi hành lại rất khó. Bản thân quan lại cũng nhận được không ít lợi lộc từ việc này, nên việc tiến cống thực chất vẫn tiếp diễn dưới hình thức “hiếu kính”. Dù là nhận đồ “hiếu kính”, nhưng ông vẫn đình chỉ tiến cống. Nếu là vật phẩm quý giá tuyệt nhiên cũng cấm “hiếu kính”.
Hương Thủy hằng năm chỉ được phép tiến cống 200 quả lê. Quan Nội vụ có hỏi: "Hoàng gia nhiều người như vậy, chỉ có hai trăm quả lê ăn sao đủ?". Đạo Quang liền nói: “Không ăn, giữ lại làm đồ cúng bái, 200 là đủ rồi!”. Vì cắt giảm cống phẩm, nên Đạo Quang cũng đem kinh phí cung đình hằng năm giảm xuống chỉ còn 20 vạn lượng. Trên thực tế, cung đình cần ít nhất 40 vạn lượng mỗi năm mới đủ chi tiêu.
Vào năm 1831, Đạo Quang ban hành “Ngự chế thận đức đường ký” để nhắc nhở các Hoàng tử, Hoàng tôn về những năm tháng khó khăn của tổ tiên khi xây dựng đế nghiệp. Qua đó, ông răn dạy các con “không ăn đồ trân quý, coi thường ham muốn vật chất…mọi thứ đều là từ mồ hôi nước mắt của nhân dân, đừng vì muốn khoe mẽ mà hoang phí.”
Đi đầu trong việc tiết kiệm
Theo lệ thường, mỗi bữa ăn của hoàng đế chi hết 800 lạng bạc. Nhưng thấy mức tiền này quá tốn kém nên ông bắt giảm hết cao lương mĩ vị đi. Vì thế, bữa ăn của hoàng đế chỉ còn rau dưa. Thậm chí thèm một quả trứng gà, hoàng đế cũng phải kiềm chế vì mỗi quả giá đến 5 lạng bạc. Có lần, nhà vua còn sai nội thị ra ngoài mua gà mái đem về nuôi để chúng đẻ trứng cho ngài ăn đỡ tốn kém. Song khi nghe nội thị về khai báo rằng, mỗi con gà mua ở ngoài chợ giá cũng 24 lạng bạc. Thế nên nhà vua không dám mua mà đành nhịn ăn trứng gà.
Ông còn ban hành quy định: trong cung ngoại trừ Thái hậu, Hoàng đế và Hoàng hậu, những người khác trong hoàng thất nếu không phải dịp lễ tết thì không được ăn thịt. Phi tần bình thường cũng không được dùng đồ trang điểm, không được mặc y phục gấm vóc.
Trong lần tổ chức sinh thần cho Hoàng hậu, trong bữa tiệc mỗi người chỉ được một bát mì. Sau đó, Hoàng đế đã “đặc biệt” sai ngự thiện phòng làm hai chiếc thủ lợn để chiêu đãi.
Do tiết kiệm nên vua và các bá quan thường mặc quần áo rách. Triều thần văn võ nhà Thanh dưới thời trị vì của Đạo Quang chẳng khác gì hai hàng ăn mày. Sử sách chép rằng, sau khi nói chuyện với Đại học sĩ Tào Chấn Dung (một người cũng có tính bủn xỉn không kém nhà vua), nhìn hai miếng vá trên cái quần rách của Tào học sĩ, Đạo Quang hỏi tiền vá hết bao nhiêu. Nào ngờ, đại học sĩ họ Tào bảo chỉ hết 3 đồng. Thấy tiền vá quần áo quá đắt đỏ, Đạo Quang liền hạ lệnh cho từ Hoàng hậu đến cung nữ và tất cả những người trong cung đều phải học may vá để không phải mất một khoản tiền phí phạm.
Mãn Thanh ngoại sử ghi chép: "Đạo Quang hoàng đế “y phi tam hoán bất dịch”. Thượng tuần, trung tuần, hạ tuần của mỗi tháng lần lượt sẽ gọi là thượng hoán, trung hoán, hạ hoán, hợp lại làm một tháng. Đạo Quang “một hoán” mới đổi một bộ quần áo".
Khi Đạo Quang còn tại vị, việc tổ chức hôn lễ cho các Hoàng tử được tiến hành vô cùng giản lược. Hoàng đế khi đó còn yêu cầu nhà gái không được không được dùng của hồi môn xa hoa, nếu cố tình thì không những không được đáp lễ mà còn bị xử phạt. Các loại lễ vật con dâu phải dâng lên cha mẹ chồng cũng đều được miễn. Về phần Công chúa xuất giá, chi phí không được vượt quá 2000 lượng bạc trắng. Sính lễ của Phò mã đối với hoàng gia cũng được giảm, ngay cả lễ vật thiết yếu là “cửu cửu lễ” cũng được miễn. Sau này, Đạo Quang lại thấy làm như vậy chẳng khác nào đem con mình đi tặng không thiên hạ, nên đã khôi phục “cửu cửu lễ”, nhưng đổi thành “dê chín con” để tượng trưng. Tuy nhiên Hoàng đế vẫn không làm yến tiệc, thịt dê của Phò mã sẽ đưa đến Ngự Thiện phòng, các khách mời chỉ hàn huyên uống trà vài câu liền được tiễn.
Trên thực tế, chính sách tiết kiệm của ông vua này có phạm vi ảnh hưởng rất hữu hạn. Ngoài thành Bắc Kinh, quan lại địa phương vẫn ngày ngày mặc nhiên tham ô, hưởng thụ.
Chiến tranh Nha phiến
Trong suốt triều đại của Đạo Quang, Trung Quốc phải trải qua vấn nạn lớn với thuốc phiện , được nhập khẩu vào Trung Quốc bởi các thương gia người Anh. Thuốc phiện đã bắt đầu nhập vào Trung Quốc dưới thời trị vì của Hoàng đế Ung Chính, nhưng với số lượng khoảng 200 rương/năm. Thời Càn Long, số lượng này đã tăng lên đến 1.000 rương, 4.000 rương dưới thời Gia Khánh và hơn 30.000 rương trong thời Đạo Quang.
Đạo Quang ban hành nhiều sắc lệnh hoàng gia cấm thuốc phiện trong những năm 1820 và 1830, được thực hiện bởi Lâm Tắc Từ. Nỗ lực ngăn chặn thuốc phiện của ông đã dẫn đến cuộc Chiến tranh Nha phiến.
Tháng 5 năm 1841, quân Anh lại tiến công Quảng Châu, đánh chiếm cửa Ngô Tùng, chiếm Thượng Hải, Bảo Sơn. Nhà Thanh buộc phải ký Hiệp ước Nam Kinh, nhà Thanh phải nhượng Hồng Kông lại cho Anh và bồi thường chiến phí cho Anh - Pháp mỗi nước 8 triệu lạng bạc. Thất bại toàn cục trong cuộc chiến này, Lâm Tắc Từ bị triệu về kinh luận tội và bị đày đi Tân Cương làm Chưởng quản lương thực.
Xây dựng lăng mộ
Cả đời Đạo Quang rất mực tiết kiệm, nhưng quá trình xây dựng lăng tẩm cho ông lại hết sức phức tạp và tốn kém. Theo điển lệ của nhà Thanh, Đạo Quang sau khi mất sẽ được táng ở Thanh Đông Lăng và bản thân ông đã cho xây dựng lăng mộ của mình tại đây ròng rã suốt bảy năm trời, nhưng nơi an nghỉ cuối cùng của ông lại nằm ở khu Tây Lăng. Giải thích cho việc này, Đông Lăng giới dễ bị nước tràn vào gây ngập. Các đại thần đương triều ít ai biết điều đó và để khắc phục, cách duy nhất là chọn một nơi khác để xây lăng.
Đại thần phụ trách là Anh Hòa biết rõ điều này hơn ai, nhưng vẫn cố che giấu, sợ quy kết trách nhiệm và phạm vào phong thủy nên đã cố tình “đâm lao phải theo lao”, tiếp tục hoàn thiện Đông Lăng giới như ban đầu. Anh Hòa dùng các biện pháp chống nước tạm thời, nhằm mục đích che mắt Hoàng đế. Công trình vừa xong, Đạo Quang đến nghiệm thu, do không hiểu gì về xây dựng nên ông dễ dàng bị qua mặt. Thấy bên trong lăng nguy nga trang lệ nên ông rất hài lòng, liền ban thưởng lớn cho các quan phụ trách sửa chữa lăng và an táng Hiếu Mục Thành Hoàng hậu tại đây.
Vào năm Đạo Quang thứ 8, đầu mùa hạ nhà vua đi săn ngoài kinh thành. Một đêm, ông nằm mơ thấy Hoàng hậu nằm giữa một dòng nước, mình mẩy ướt đẫm kêu cứu. Tỉnh dậy, vua định thần ngủ tiếp song giấc mơ khi nãy lại xuất hiện. Cả ba lần nằm mộng thấy lạ, ngẫm nghĩ hồi lâu, Đạo Quang cho rằng có thể Đông Lăng giới bị ngập nước, Hoàng hậu báo mộng để mong cứu giúp. Sáng hôm sau, ông lên đường đến nơi thì quả đúng nước tràn vào trong lăng, ngập cả giày. Nghĩ đến cảnh khi băng hà nằm giữa sông, giữa biển, khó bề lưu giữ xương cốt, Đạo Quang nổi giận lôi đình, lệnh cho hình bộ xử tội tất cả quan lại tham gia sửa chữa Đông Lăng giới.
Việc chuyển lăng mộ đến Thanh Tây lăng rất hao tốn tiền của, lại đi ngược với giáo huấn của tổ tiên, nhưng Đạo Quang cho rằng đây là việc nên làm mà không màng đến lãng phí. Lý do sâu xa chính bởi khu lăng mộ mới ở Tây Lăng giới nằm ngay dưới khu hoàng lăng của cha mẹ ông. Vì làm trọn chữ hiếu mà ông không ngại tốn kém và phạm cấm kỵ. Năm Đạo Quang thứ 11, lăng được chính thức khởi công xây dựng. Trước khi động thổ Đạo Quang nói “Mọi sự ở đây phải tiết kiệm hết sức, không được lãng phí”. Đích thân Đạo Quang hạ chỉ giảm bớt các công trình phụ trong khu lăng mộ sao cho đơn giản không xa xỉ. Các gian điện, lầu gác, lan can đá, tượng voi, ngói lưu li… tiết giảm hợp lý.
Khi xây dựng xong, quả thật Mộ lăng của Đạo Quang nhìn từ bề ngoài có phần đơn giản hơn các khu lăng khác của hoàng đế nhà Thanh. Dù vậy, theo tài liệu khảo cổ thì nơi đây đã tiêu tốn hết hơn 240 vạn lượng bạc, tốn hơn so với khu lăng của Càn Long 37 vạn lượng bạc.
Điểm đầu tiên khiến cho giá thành xây dựng lăng mộ đắt đỏ là bởi loại gạch được sử dụng. Do đây là loại gạch mới, giá thành nguyên liệu và nhân công cũng cao hơn loại thường, thi công cũng phức tạp hơn. Toàn bộ tường bao của công trình còn được gắn ngói lưu ly vàng. Đứng từ xa nhìn tổng thể kiến trúc khu lăng hài hòa giữa màu nâu của chất liệu gỗ và vàng đặc trưng thời Minh Thanh. Điểm thứ hai khiến cho công trình này trở nên đắt đỏ là do bên trong dùng đá tảng khổng lồ dựng thành ba gian, bốn trụ cùng ba lầu. Các hình chim thú điêu khắc không dùng gỗ mà dùng đá trắng điêu khắc kỳ công, tiêu tốn nhiều chi phí. Ngoài ra, toàn bộ nội thất gỗ hay đến cả cột trụ cũng đều dùng loại gỗ quý hiếm là kim ti nam mộc trứ danh. Điều này khiến cho không ít người giật mình vì ngay đến lăng vua Ung Chính cũng chỉ có cửa sổ được làm bằng loại gỗ này.
Gỗ kim ti nam mộc đến thời nhà Thanh trở nên quý hiếm vì mùi hương rất dễ chịu. Lăng Đạo Quang dùng loại gỗ này làm các tấm ốp trần điêu khắc hơn hai nghìn con rồng cực kỳ tinh xảo. Theo tính toán, để chạm khắc được một con rồng như trên một thợ giỏi cũng phải mất đến nửa tháng. Như vậy cả công trình này cần đến hơn 30.000 người thợ điêu khắc tiêu tốn 3 vạn lạng bạc. Đạo Quang chú trọng rồng trên các tấm ốp điện lăng với ngụ ý rồng ở trên cao cai quản nước trên trời tránh để nước ngập vào trong lăng của ông.
Lăng chính thức được đổi tên thàng Mộ lăng (慕陵). Chữ “mộ” ở đây có nghĩa là ngưỡng mộ.
Qua đời
Năm Đạo Quang thứ 30 (1850), ngày 15 chính nguyệt (tức 26 tháng 2 dương lịch), ông băng hà ở tuổi 69 tại Viên Minh Viên, cai trị được 30 năm. Trước đó, vào 1 tháng trước, mẹ cả ông là Hiếu Hòa Duệ hoàng hậu qua đời, ông được ghi nhận thương tâm quá độ, đích thân cử hành đại tang nên thân thể suy kiệt.
Thụy hiệu của ông là Hiệu Thiên Phù Vận Lập Trung Thể Chính Chí Văn Hiền Võ Trí Giác Nhân Từ Kiệm Cần Hiếu Mẫn Khoan Định Thành Hoàng đế (效天符運立中體正至文聖武智勇仁慈儉勤孝敏寬定成皇帝), an táng tại Mộ lăng (慕陵).
Sau khi qua đời, con trai thứ 4 của ông là Dịch Trữ đăng cơ, tức Thanh Văn Tông Hàm Phong hoàng đế.
Gia quyến
Tổ tiên của Đạo Quang | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
- Thân phụ: Thanh Nhân Tông Gia Khánh hoàng đế.
- Thân mẫu: Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu Hỉ Tháp Lạp thị (孝淑睿皇后喜塔腊氏, 1760 - 1797).
Hoàng hậu
Tên | Chân dung | Sinh mất | Cha | Ghi chú |
---|---|---|---|---|
Hiếu Mục Thành Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị |
? 17 tháng 2 năm 1808 |
Bố Ngạn Đạt Lãi (布彥達賚) | Dòng dõi Khác Hi công Át Tất Long. Nguyên phối Phúc tấn khi Đạo Quang Đế còn là Trí thân vương.
Qua đời khi Đạo Quang Đế còn là Trí thân vương, chưa từng ở ngôi Hoàng hậu. Không con. | |
Hiếu Thận Thành Hoàng hậu Đông Giai thị |
1790 29 tháng 4 năm 1833 (43 tuổi) |
Thư Minh A (舒明阿) | Thuộc Tương hoàng kỳ Đông Giai thị. Kế phúc tấn nhưng là Hoàng hậu đầu tiên.
Chỉ hạ sinh duy nhất Cố Luân Đoan Mẫn công chúa | |
Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị |
24 tháng 3 năm 1808 13 tháng 2 năm 1840 (31 tuổi) |
Di Linh (颐龄) | Thuộc Chính hồng kỳ xuất thân, gia thế tương đối thấp.
Nhập cung sơ phong Quý nhân, dần thăng Quý phi. Sau khi Hiếu Thận Thành Hoàng hậu qua đời, bà trở thành Hoàng hậu kế vị. Sinh ra Cố Luân Đoan Thuận công chúa, Cố Luân Thọ An công chúa và Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế. | |
Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu Bác Nhĩ Tề Cát Đặc thị |
19 tháng 6 năm 1812 21 tháng 8 năm 1855 (43 tuổi) |
Hoa Lương A (花良阿) | Xuất thân Mãn Châu Chính Lam kỳ, dòng dõi Nguyên Chiêu Tông
Chưa từng làm Hoàng hậu, chỉ tôn lập Hoàng thái hậu thời Hàm Phong, được 8 ngày thì qua đời. Sinh ra Hoàng nhị tử Dịch Cương, Hoàng tam tử Dịch Kế, Cố Luân Thọ Ân công chúa và Cung Trung Thân vương Dịch Hân. |
Phi tần
Tên | Họ | Sinh | Mất | Cha | Ghi chú | |
---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng quý phi | ||||||
Trang Thuận hoàng quý phi | Ô Nhã thị | 1822 | 26 tháng 11 năm 1866 | Ô Nhã Linh Thọ (烏雅灵寿) | Sơ phong Thường tại (常在), dần trở thành Lâm Quý phi (琳貴妃).
Khi Đạo Quang mất, bà trở thành Hoàng khảo Lâm Quý thái phi (皇考琳貴太妃). Thời Đồng Trị trở thành Hoàng tổ Lâm Hoàng quý thái phi (皇祖琳皇貴太妃). Sinh ra Thuần Hiền Thân vương Dịch Hoàn, Chung Đoan Quận vương Dịch Hỗ, Phu Kính Quận vương Dịch Huệ và Cố Luân Thọ Trang công chúa. | |
Quý phi | ||||||
Đồng Quý phi | Thư Mục Lộc thị | ? | 1877 | Lang trung Ngọc Chương (玉彰) | Nhập cung sơ phong Quý nhân, dần được tấn phong đến Đồng Quý phi (彤贵妃) (1836).
Năm 1844, bị giáng phong làm Đồng quý nhân. Sau Hàm Phong Đế tôn phục lại làm Hoàng khảo Đồng Quý phi (皇考彤贵妃). Sinh hạ 3 người con gái: Hoàng thất nữ, Hòa Thạc Thọ Hi công chúa và Hoàng thập nữ. | |
Giai Quý phi | Quách Giai thị | ? | 1890 | Nhập cung không rõ gia thế. Năm 1835, tấn làm Giai quý nhân (佳贵人). Năm 1837, tấn làm Giai tần (佳嬪), không lâu sau bị truất làm Quý nhân.
Thời Hàm Phong Đế, được tấn tôn trở thành Hoàng khảo Giai tần (皇考佳嫔). Đến thời Đồng Trị trở thành Hoàng tổ Giai phi (皇祖佳妃), rồi tấn phong Giai quý phi (佳贵妃). Không con. | ||
Thành Quý phi | Nữu Hỗ Lộc thị | 1813 | 1888 | Nhập cung nguyên là Thành Quý nhân (成貴人).
Năm Hàm Phong kế vị, được tấn tôn lên Thành tần (成嬪), Thành phi (成譓) rồi Thành Quý phi (成貴妃). | ||
Phi tần | ||||||
Hòa phi | Na Lạp thị | ? | 1836 | Khanh hàm Thành Văn (成文) | Thành hôn với Đạo Quang khi còn là Trí thân vương, mang thân phận Cách cách (格格), sau được đặc biệt phong làm Trắc phúc tấn vì sinh hạ Hoàng trưởng tử.
Đạo Quang Đế tức vị, bà được sách phong Hòa tần (和嬪), sau thăng Hòa phi (和妃). Sinh ra Ân Chỉ Quận vương Dịch Vĩ | |
Tường phi | Nữu Hỗ Lộc thị | ? | 1861 | Lang trung Cửu Phúc (久福) | Tiềm để Cách cách khi còn là Trí thân vương.
Đạo Quang tức vị sách phong bà thành Tường quý nhân (祥贵人), rồi thăng Tường tần (祥嬪), sau thăng Tường phi (祥妃). Sinh ra Đôn Cần Thân vương Dịch Thông, Hoàng nhị nữ và Hòa Thạc Thọ Tang công chúa. | |
Thường phi | Hách Xá Lý thị | 1808 | 1860 | Nhập cung không rõ gia thế, nhập cung phong Thường quý nhân (常貴人.
Sau Hàm Phong thăng làm Hoàng khảo Thường tần (皇考常嬪). Dưới thời Đồng Trị, được tôn làm Hoàng tổ Thường phi (皇祖常妃). | ||
Trân tần | Hách Xá Lý thị | ? | ? | Án sát Dung Hải (容海) | Nhập cung sơ phong Quý nhân, thăng làm Trân tần (珍嬪) rồi Trân phi (珍妃)
Sau bị giáng làm Trân tần. | |
Điềm tần | Phú Sát thị | ? | ? | Nguyên là Trắc phúc tấn của Đạo Quang Đế khi còn là Trí Thân vương.
Đạo Quang đăng cơ sách phong bà làm Điềm tần. | ||
Dự tần | Thượng Giai thị | ? | ? | Nhập cung sơ phong Đáp ứng rồi Thường tại.
Hàm Phong tôn làm Hoàng khảo Quý nhân (皇考貴人) (1861). Đồng Trị kế vị tôn làm Hoàng tổ Dự tần (皇祖豫嬪) (1874) | ||
Thuận tần | Na Lạp thị | 1811? | 1868 | Nhập cung sơ phong Thường tại rồi thăng Thuận Quý nhân (順貴人) trong cùng năm 1824, sau bị giáng Thường tại (1829).
Hàm Phong kế vị tôn làm Hoàng khảo Thuận Quý nhân (皇考顺贵人). Đồng Trị tấn tôn Hoàng khảo Thuận tần (皇考順嬪) | ||
Hằng tần | Thái Giai thị | ? | 27 tháng 6 năm 1876 | Nhập cung sơ phong Thường tại rồi Nghi Quý nhân (宜常在) (1834), giáng Thường tại sau đó, giáng tiếp Thái Đáp ứng (蔡答應) (1838).
Hàm Phong tôn làm Hoàng khảo Thường tại (皇考常在), Đồng Trị tôn làm Hoàng tổ Quý nhân (皇祖貴人) rồi tấn tôn lên Hoàng tổ Hằng tần (皇祖恆嬪) | ||
Ngự thiếp | ||||||
Bình quý nhân | Triệu thị | ? | 5 tháng 5 năm 1823 | Nguyên là Tiềm để Cách cách, thăng Quý nhân (1820). Mất khi còn khá trẻ | ||
Định quý nhân | Tôn thị | ? | 24 tháng 1 năm 1843 | Nguyên là Tiềm để Cách cách, thăng Quý nhân (1820) | ||
Lý quý nhân | Lý thị | 25 tháng 11 năm 1827 | 26 tháng 3 năm 1872 | Nội vụ phủ Lục khố Lang trung Lý Thiện Bảo (李善保) | Nhập cung sơ phong Y Thường tại (意常在) (1840) nhưng lại giáng xuống Đáp ứng 9 tháng sau.
Hàm Phong tôn làm Hoàng khảo Thường tại, Đồng Trị tôn làm Hoàng tổ Quý nhân | |
Na quý nhân | Na thị | 5 tháng 8 năm 1825 | 9 tháng 9 năm 1865 | Quản lĩnh Na Tuấn (那俊) | Xuất thân thuộc Chính Bạch kỳ, sơ phong Lộc Thường tại (琭常在) (1840) thăng Quý nhân 9 tháng sau, giáng Thường tại (1841) rối giáng tiếp Đáp ứng 4 năm sau.
Hàm Phong tôn làm Hoàng khảo Thường tại, Đồng Trị tôn làm Hoàng tổ Quý nhân | |
Mạn thường tại | ? | ? | 1833 | Không rõ danh tính, nhập cung năm Đạo Quang thứ 11 (1831), sơ phong Thường tại, chết 2 năm sau | ||
Mục Đáp ứng | Hách Xá Lý thị | ? | 1835 | Nhập cung sơ phong Mục Quý nhân (睦貴人) (1822), 8 năm sau thăng Mục tần (睦嬪), 1 năm sau giáng lại Quý nhân rồi Đáp ứng không lâu sau | ||
Quan nữ tử | Lưu thị | ? | 1842 | Sơ phong Đáp ứng (1833), giáng xuống bậc thấp nhất là Quan nữ tử 2 năm sau |
Hậu duệ
# | Danh hiệu | Tên | Sinh | Mất | Mẹ | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng tử | ||||||
1 | Ân Chỉ Quận vương (隱志郡王) |
Dịch Vĩ | 16 tháng 5 năm 1808 | 23 tháng 5 năm 1831 | Hoà phi | |
2 | Thuận Hoà Quận vương (順和郡王) |
Dịch Cương | 22 tháng 11 năm 1826 | 5 tháng 3 năm 1827 | Hiếu Tĩnh Thành hoàng hậu | |
3 | Tuệ Chất quận vương (慧質郡王) |
Dịch Kế | 2 tháng 12 năm 1829 | 22 tháng 1 năm 1830 | Hiếu Tĩnh Thành hoàng hậu | |
4 | Văn Tông Hiển hoàng đế | Dịch Trữ | 17 tháng 7 năm 1831 | 22 tháng 8 năm 1861 | Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu | Kế vị trở thành Hàm Phong Đế |
5 | Đôn Cần Thân vương (惇勤亲王) |
Dịch Thông | 23 tháng 7 năm 1831 | 18 tháng 2 năm 1889 | Tường phi | |
6 | Cung Trung Thân vương (恭忠亲王) |
Dịch Hân | 11 tháng 1 năm 1833 | 29 tháng 5 năm 1898 | Hiếu Tĩnh Thành hoàng hậu | Nhân vật chính trị đáng kể thời Đồng Trị |
7 | Thuần Hiền Thân vương (醇贤亲王) |
Dịch Hoàn | 16 tháng 10 năm 1840 | 1 tháng 1 năm 1891 | Trang Thuận Hoàng quý phi | Thân sinh ra Thanh Đức Tông Quang Tự Đế |
8 | Chung Đoan Quận vương (鍾端郡王) |
Dịch Hỗ | 14 tháng 3 năm 1844 | 17 tháng 12 năm 1868 | Trang Thuận Hoàng quý phi | |
9 | Phu Kính Quận vương (孚敬郡王) |
Dịch Huệ | 15 tháng 11 năm 1845 | 22 tháng 3,1877 | Trang Thuận Hoàng quý phi | |
Hoàng nữ | ||||||
1 | Cố Luân Đoan Mẫn công chúa (固倫端憫公主) |
Hoàng trưởng nữ | 3 tháng 7 năm 1813 | 20 tháng 10 năm 1819 | Hiếu Thận Thành Hoàng hậu | |
2 | Hoàng nhị nữ | 13 chính nguyệt năm 1825 | 14 tháng 7 năm 1825 | Tường phi | ||
3 | Cố Luân Đoan Thuận công chúa (固倫端順公主) |
Hoàng tam nữ | 20 tháng 2 năm 1825 | 8 tháng 11 năm 1835 | Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu | |
4 | Cố Luân Thọ An công chúa (固倫壽安公主) |
Hoàng tứ nữ | 6 tháng 4 năm 1826 | 3 tháng 3 năm 1860 | Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu | Hạ giá lấy Đức Mục Sở Khắc Trát Bố (德穆楚克扎布), thuộc Bát Nhĩ Tế Cát Đặc đại bộ tộc, con trai của Nại Man bộ quận vương A Hoàn Đô Ngoã Đệ Trát Bố (阿完都瓦第扎布). |
5 | Hòa Thạc Thọ Tang công chúa (和碩壽臧公主) |
Hoàng ngũ nữ | 19 tháng 10 năm 1829 | 9 tháng 7 năm 1856 | Tường phi | Hạ giá lấy Na Mộc Đô Lỗ Ân Sùng (那木都鲁恩崇). |
6 | Cố Luân Thọ Ân công chúa (固倫壽恩公主) |
Hoàng lục nữ | 7 tháng 12 năm 1830 | 13 tháng 4 năm 1859 | Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu | Hạ giá lấy Cảnh Thọ (景寿) của tộc Phú Sát, một trong Cố mệnh bát đại thần của Thanh Văn Tông. |
7 | Hoàng thất nữ | 2 tháng 10 năm 1840 | 20 tháng 12 năm 1844 | Đồng Quý phi | ||
8 | Hòa Thạc Thọ Hi công chúa (和碩壽禧公主) |
Hoàng bát nữ | 26 tháng 12 năm 1841 | 2 tháng 8 năm 1866 | Đồng quý phi | Hạ giá lấy Trát Lạp Phong A (扎拉丰阿) thuộc danh tộc Nữu Hỗ Lộc. |
9 | Cố Luân Thọ Trang công chúa (固倫壽莊公主) |
Hoàng cửu nữ | 13 tháng 2 năm 1842 | 14 tháng 2 năm 1884 | Trang Thuận Hoàng quý phi | Sơ phong Hòa Thạc công chúa (和硕公主), hạ giá lấy Đức Huy (德徽) của họ Bát La Đằng (博罗特氏), thế tập tước Thành Dũng công (诚勇公).
Năm 1863, Ngạch phò Đức Huy qua đời, công chúa được Đồng Trị Đế phong làm Cố Luân công chúa (固倫公主). |
10 | Hoàng thập nữ | 17 tháng 3 năm 1844 | 20 chính nguyệt năm 1845 | Đồng quý phi |
Phim ảnh truyền hình
Nhân vật Hoàng đế Đạo Quang trong phim Đại Thanh hậu cung. Bộ phim này có thể nói là hướng về Tình yêu nhiều hơn so với các bộ phim đề tài Hậu cung khác, có nhiều ý kiến cho rằng nhân vật Tây Lâm Xuân (Tây Giác La Lâm Xuân) diễn xuất của nhân vật không biết là hướng đến mục đích là gì.
Nhân vật Hoàng đế Đạo Quang do Trần Cẩm Hồng đóng vai trong Vạn Phụng Chi Vương
Kế vị
Tham khảo
- Thanh sử cảo, Tuyên Tông bản kỉ, quyển 17 - 18 - 19
- Quý tộc nhà Thanh